Học thuyết Tạng Tượng

     

HỌC THUYẾT TẠNG TƯỢNG

 

Theo nghĩa rộng mà nói, tạng là chỉ vào các tạng khí trong thân thể con người, tượng là chỉ vào các hiện tượng biểu hiện ra ngoài. Vì thế, hai chữ tạng tượng, nói đơn giản cũng là chỉ vào các hiện tượng mà các tạng khí bên trong biểu hiện ra ngoài thân thể. Chữ tạng khí trong sách Đông y thường nêu ra, tuy đôi chỗ cũng có hàm nghĩa chữ tạng khí mà y học hiện đại thường nói, nhưng mặt chủ yếu của nó là không phải chỉ riêng vào bản thân của tạng khí, mà chỉ vào các hiện tượng của các tạng khí bên trong biểu hiện ra ngoài thân thể.

 

Nói một cách khác là căn cứ vào đặc điểm của các hiện tượng sinh lý, bệnh lý biểu hiện ở ngoài thân thể mà quy nạp vào phạm vi tác dụng của các tạng khí khác nhau. Vương Băng nói: “Tượng tức là thể hiện ra ngoài có thể trông thấy được”. Trương Cảnh Nhạc nói: “Tạng ở bên trong, hình hiện ra bên ngoài cho nên nói là tạng tượng”. (Loại kinh, quyển 3). Những điều đó nói rõ thực chất tinh thần học thuyết tạng tượng của Đông y. Chính vì những danh từ Tạng khí mà Đông y thường gọi, không nhất định là chỉ vào bản thân của tạng khí nào đó, mà chủ yếu là chỉ vào tạng tượng. Cho nên, chúng ta không nên gò ép dùng khái niệm về tạng khí của y học hiện đại mà so sánh với nó được.

 

      Nội dung chủ yếu của chương này gồm có: công năng sinh lý và sự quan hệ lẫn nhau của ngũ tạng, lục phủ, phủ kỳ hằng và dinh vệ, khí, huyết, tinh, thần, tân, dịch. Ngũ tạng là tâm, can,tỳ, phế, thận, lục phủ là đởm, vị, đại trường, tiểu trường, bàng quang và tam tiêu, phủ kỳ hằng tức là não, tủy, cốt, mạch, đởm, nữ tử bào. Ngoài ngũ tạng còn có tâm bào lạc là ngoại vệ của tâm, quan hệ với tâm tạng rất là mật thiết, vì thế thường thường thảo luận nó cùng với ngũ tạng Dinh, vệ, khí, huyết, tinh, thần, tân, dịch tuy không phải là tạng khí, nhưng cũng là bộ phận trọng yếu trong phạm vi sinh lý, cho nên trong chương này cũng giới thiệu.

 

Tạng và phủ tuy đều là nội tạng của thân thể người ta, nhưng có sự phân biệt nhất định, như thiên Ngũ tạng biệt luận sách Tố vấn nói: “Ngũ tạng là tàng trữ tinh khí mà không tả ra, cho nên đầy mà không chắc, lục phủ là truyền tống những vật đã hóa đi mà không tàng trữ lại, cho nên chắc mà không đầy”. Nói một cách cụ thể, phàm các khí quan có công năng xuất nạp chuyển thâu, truyền hóa đồ ăn, thì quy vào loại phủ, những khí quan có công năng tàng trữ tinh khí, thì quy vào loại tạng.

 

      Những sự phân chia và quy nạp của tạng phủ không phải là nói các tạng phủ cái nào cứ làm việc riêng cho tạng phủ ấy, không kể là về phương diện hoạt động sinh lý, hoặc là về phương diện biến hóa bệnh lý, giữa các tạng phủ với nhau đều có quan hệ mật thiết không thể chia cắt ra được. Sự quan hệ ấy chẳng những biểu hiện ở giữa tạng với tạng, giữa phủ với phủ, giữa tạng phủ với nhau, đồng thời còn biểu hiện ở các phương diện tạng phủ với chi thể, thất khiếu, ngũ chí và ngũ sắc, ngũ vị. Ngoài ra, Tạng phủ còn có liên hệ với sự di chuyển biến hóa của khí hậu bốn mùa trong giới tự nhiên.

 

Quan hệ giữa tạng với tạng là quan hệ sinh chế lẫn nhau, như thiên Âm dương ứng tượng đại luận sách Tố vấn nói: “Can sinh cân, cân sinh tâm..., tâm sinh huyết, huyết sinh tỳ, tỳ sinh nhục, nhục sinh phế..., phế sinh bì mao, bì mao sinh thận..., thận sinh cốt tủy, cốt tủy sinh can”. Đó là nói giữa tạng với tạng có quan hệ nuôi dưỡng lẫn nhau. Thiên Ngũ tạng sinh thành luận sách Tố vấn lại có nói: “Thận làm chủ cho tâm, tâm làm chủ cho phế, phế làm chủ cho can, can làm chủ cho tỳ, tỳ làm chủ cho thận”. Chủ là có ý nghĩa chủ tể chế ước tức là nói giữa tạng với tạng có sự quan hệ chế ước lẫn nhau. Do đó có thể thấy giữa tạng với tạng đã nuôi dưỡng lẫn nhau, lại chế ước lẫn nhau, cho nên mới có thể giữ gìn được trạng thái thăng bằng và điều hòa.

 

     Quan hệ giữ phủ với phủ là quan hệ truyền hóa. Thiên Lục tiết tạng tượng luận sách Tố vấn nói: “Tỳ, vị, đại trường, tiểu trường, tam tiêu bàng quang là căn bản của kho tàng, là chỗ sinh ra dinh khí, gọi là đồ chứa đựng. Nó có thể hóa được cặn bã chuyển vận ngũ vị đi vào đi ra”. Thiên Bình nhân tuyệt cốc sách Linh khu nói: “Dạ dày đầy thì ruột trống không, ruột đầy thì dạ dày trống không, trống rồi đầy, đầy rồi trống, cho nên khí mới lên xuống được”. Bởi vì lục phủ là chỗ chứa đựng đồ ăn uống, tinh khí của đồ ăn uống đều do đó mà truyền đi khắp các nơi, cặn bã cũng do đó mà biến hóa để bài tiết ra ngoài. Cho nên chỗ khác nhau của ngũ tạng với lục phủ là lục phủ là cơ quan có khi vào, có khi ra, có khi đầy, có khi trống, là tổ chức xuất nạp, tiêu hóa, chuyển tháo, là nguồn cung cấp chất dinh dưỡng cho toàn thân. ý nghĩa của những câu “Căn bản của kho tàng”, “Chỗ sinh ra dinh khí” cũng là ở chỗ đó.

 

Quan hệ giữa tạng với phủ là quan hệ biểu lý. Như thiên Huyết khí hình chi sách Tố vấn đã nói: “Túc thái dương (bàng quang) là biểu lý với thiếu âm (thận), túc thiếu dương (đởm) là biểu lý với quyết âm (can), túc dương minh (vị) là biểu lý với thái âm (tỳ), đó là túc âm dương vậy. Thủ thái dương (tiểu trường) là biểu lý với thiếu âm (tâm), thủ thiếu dương (tam tiêu) là biểu lý với tâm chủ (tâm bào lạc), thủ dương minh (đại trường) là biểu lý với thái âm (phế), đó là thủ âm dương vậy”. Cho nên lý luận phối hợp biểu lý, chủ yếu là thông qua sự liên hệ của 12 kinh mạch để nói rõ sự quan hệ lẫn nhau về sinh lý và bệnh lý.

 

Về quan hệ giữa nội tạng với tay chân, thì thiên Tà khách sách Linh khu nói: “Phế, tâm có tà khí của nó lưu ở hai khuỷu tay, can có tà khí của nó lưu ở hai nách, tỳ có tà khí của nó lưu ở hai háng, thận có tà khí của nó lưu ở hai khoeo chân. Phàm tám chỗ hư ấy đều là chỗ tụ hội, chân khí đi qua đó, huyết lạc cũng đi qua đó”. Đó là sự quan hệ mật thiết của ngũ tạng với tám chỗ lưu ở chân tay, quan hệ ấy phải thông qua sự liên hệ của kinh lạc. Ngoài ra, tay chân còn có quan hệ với vị mà phải thông qua tác dụng của tỳ. Thiên Thái âm dương minh luận sách Tố vấn nói: “Hoàng đế hỏi: tỳ bị bệnh mà tay chân không hoạt động được như thường là tại sao ? Kỳ Bá nói: tay chân đều tiếp nhận khí ở dạ dày nhưng khí ấy phải nhờ tác dụng của tỳ thì mới đạt đến tứ chi được”. Đó là nói: tay chân đều nhờ vào sự cấp dưỡng của tỳ vị. Căn cứ vào lời chỉ dẫn của hai tiết kinh văn trên, xem xét sự biến hóa của tay chân, thì có thể giúp cho ta hiểu rõ sự biến hóa ở nội tạng.

 

     Quan hệ của ngũ tạng với ngũ thể và thất khiếu: người xưa cho rằng sự hoạt động phức tạp của sinh mạng con người ở trong có tiêu hóa tuần hoàn, ngoài có trông, nghe, nói, làm, không một cái gì là không thể hiện ở công năng hoạt động của nội tạng. Cho nên thiên Ngũ tạng sinh thành luận sách Tố vấn nói: “Tâm hợp với mạch, vinh nhuận ở sắc..., phế hợp với da, vinh nhuận với lông. Can hợp với gan, vinh nhuận ở móng tay, móng chân..., tỳ hợp với bắp thịt, vinh nhuận ở môi..., thận hợp với xương, vinh nhuận ở tóc”. Thiên Âm dương ứng tượng đại luận sách Tố vấn nói: “Khiếu của can là ở mắt, khiếu của tâm là ở lưỡi, khiếu của tỳ là ở miệng, khiếu của phế là ở mũi, khiếu của thận là ở tai”. Những điều đó đều nói rõ sự quan hệ giữa nội tạng với ngũ thể và thất khiếu.

 

     Quan hệ giữa ngũ tạng và ngũ chí: ngũ chí là chỉ vào sự biến động của năm loại tình cảm vui mừng, giận dữ, lo nghĩ, bi thương, sợ hãi. Người ta gặp sự kích thích của sự vật bên ngoài mà sinh ra những thay đổi về tình cảm. Những thay đổi đó không thể tách rời được công năng hoạt động của ngũ tạng. Thiên Âm dương ứng tượng đại luận sách Tố vấn nói: “Con người có năm tạng, hóa ra năm khí mà sinh ra vui mừng, giận dữ, lo nghĩ, bi thương, sợ hãi”. Cho nên về phương diện bệnh lý thì sự thay đổi về tình cảm, quá bình thường sẽ thương tổn đến ngũ tạng mà sinh ra bệnh như “giận dữ thì hại can”, “vui mừng thì hại tâm”, “lo nghĩ thì hại tỳ”, “buồn rầu thì hại phế”, “sợ hãi thì hại thận”. Đó là bệnh nội thương về tình chí mà thường hay nói.

 

     Quan hệ giữa nội tạng với ngũ sắc: Ngũ sắc là nói về năm sắc xanh, đỏ, trắng, đen, vàng. Trong tình trạng bình thường thì tinh ba của tinh khí năm tạng biểu lộ ra ở khoảng mày, mắt, mặt, mũi với màu sắc điều hòa, thần khí rạng rỡ, nếu nội tạng sinh bệnh thì sắc mặt thường thường cũng theo đó mà biến đổi, như bệnh tâm phần nhiều hiện ra sắc đỏ, bệnh can phần nhiều hiện ra sắc xanh, bệnh tỳ phần nhiều hiện ra sắc vàng, bệnh phế phần nhiều hiện ra sắc trắng, bệnh thận phần nhiều hiện ra sắc đen. Đó là hiện tượng bệnh lý chung, còn như sự biến hóa của nó thì nhất trí với sự phối hợp giữa ngũ tạng, ngũ sắc và ngũ hành. Như bệnh can lại thấy sắc trắng (kim khắc mộc), bệnh tâm lại thấy sắc đen (thủy khắc hỏa) đó là nói rõ giữa ngũ tạng có hiện tượng xung khắc, thì dự đoán tật bệnh về sau phần nhiều là không tốt.

 

    Quan hệ giữa nội tạng với ngũ vị: ngũ vị là nói về năm vị chua, đắng, ngọt, cay, mặn. Ngũ tạng đối với ngũ vị mỗi tạng cần mỗi vị khác nhau, ngũ vị đối với các tạng thì mỗi vị thích ứng với mỗi tạng khác nhau. Thiên Ngũ vị sách Linh khu nói: “Ngũ vị đều đi đến chỗ thích hợp với nó, vị chua của đồ ăn thì chạy về can trước, vị đắng chạy về tâm trước, vị cay chạy về phế trước, vị mặn chạy về thận trước”. Chính vì mỗi vị đều thích ứng riêng với một tạng phủ cho nên ngày thường ăn uống, cần phải điều hòa ngũ vị để thích ứng với nhu cầu của ngũ tạng, nếu trong ngũ vị mà chỉ thích ứng riêng một vị nào, thì sẽ có thể ảnh hưởng đến sự thăng bằng điều hòa của cơ năng giữa các tạng phủ mà sinh ra bệnh. Thiên Âm dương ứng tượng đại luận sách Tố vấn chép: “Vị chua hại gân, vị đắng hại khí, vị ngọt hại thịt, vị cay hại da lông, vị mặn hại huyết” tức là nói rõ về vấn đề ấy.

 

    Quan hệ giữa nội tạng với khí hậu bốn mùa: thân thể người ta điều hòa thống nhất giữa nội tạng với nhau, giữa nội tạng với chi thể, thất khiếu..., đồng thời nội tạng lại còn luôn luôn thích ứng với sự biến hóa của hoàn cảnh bên ngoài nữa. Thiên Lục tiết tạng tượng luận sách Tố Vấn nói: “Tâm... thông với khí mùa hạ; phế... thông với khí mùa thu; thận... thông với khí mùa đông; can... thông với khí mùa xuân; tỳ... thông với thổ khí của trưởng hạ”. Nói tóm lại, nội tạng và sự di chuyển biến hóa của khí hậu bốn mùa có quan hệ chặt chẽ với nhau. Cho nên, thầy thuốc đời xưa nhận rằng, người ta sống ở trong tự nhiên giới, mọi phương diện đều cần phải thích ứng với sự biến hóa của khí hậu bốn mùa, mới có thể giữ gìn được sức khỏe. Nếu không thích ứng được với sự biến hóa hoặc chính khí của cơ thể không đủ thì tà khí lục dâm (phong, hàn, thử, thấp, táo, hỏa) đều có thể ảnh hưởng đến nội tạng mà sinh ra tật bệnh cho nên thiên Sinh khí thông thiên luận sách Tố vấn có nói: “Mùa xuân cảm phong, tà khí lưu lại trong người sinh ra ỉa chảy; mùa hạ cảm thử, đến mùa thu sẽ sinh ra chứng sốt rét cơn; mùa thu cảm thấp, khí nghịch lên sinh ra ho, phát thành bệnh nguy quyết; mùa đông cảm hàn thì mùa xuân tất sinh bệnh ôn, khí hậu bốn mùa biến hóa thay đổi nhau mà tổn hại đến ngũ tạng”.

 

    Ngoài ra, như dinh, vệ, khí huyết, tinh thần, tân dịch và kinh lạc, đều là vật chất và công năng của cơ thể, nó có đủ tác dụng trọng yếu trong đời sống của con người.

 

Dinh, vệ, khí, huyết và tinh thần, tân dịch đều là những vật chất bổ dưỡng cho tinh ba của đồ ăn uống hóa sinh ra, sự sinh thành và vận hành phân bố của những thứ đó phải thông qua công năng hoạt động của tạng phủ, kinh lạc như là tiêu hóa, hấp thụ, vận hóa, thâu bố, tàng nạp, v.v... mới thực hiện được. Thần là sự thể hiện của hoạt động sinh mệnh của con người. Người xưa nói thần là chủ tể ở tâm, là bộ phận lãnh đạo tối cao của tạng phủ, kinh lạc và toàn bộ hoạt động của cơ thể con người.

 

    Kinh lạc ở trong thì thuộc về ngũ tạng lục phủ, ở ngoài thì liên lạc với tứ chi bách hài, là đường vận hành khí huyết, sự điều hòa và thống nhất của cơ thể không thể tách rời tác dụng của kinh lạc.

 

Trên đây đều thuộc về phạm trù của tạng tượng, nhưng vì kinh lạc đã có một hệ thống lý luận riêng, cho nên lập riêng ra một chương để thảo luận. Chương này chủ yếu là thảo luận về công năng sinh lý của nội tạng và dinh, vệ, khí, huyết, tinh thần, tân dịch; đồng thời cũng có đề cập đến một số hiện tượng bệnh lý có liên quan, bởi vì những nhiện tượng bệnh lý ấy, có thể phản ảnh chứng minh được công năng của sinh lý.

 

 

i. ngũ tạng

 

1. Tâm (phụ: tâm bào lạc)

 

a) Tâm là chức vụ quân chủ, chủ về thần minh

 

Tâm là chủ tể của sự hoạt động sinh mệnh trong thân thể người ta, đứng hàng đầu trong các tạng phủ, tất cả tinh thần, ý thức và tư tưởng đều quy vào công năng của tâm. Cho nên gọi tâm là “chức vụ quân chủ” để nói rõ tính chất trọng yếu của tâm. Như trong thiên Tà khách sách Linh khu nói: “Tâm là vị đại chủ của lục phủ ngũ tạng, là chỗ cư trú của thần minh”. Thiên Tuyên minh ngũ khí luận sách Tố vấn nói: “Tâm tàng thần”. Thiên Luận tiết tạng tượng sách Tố vấn nói: “Tâm là nguồn gốc của sinh mệnh, là nơi biến hóa của thần”.

 

Những câu ghi chép trên đây đều chứng minh tâm thông qua tác dụng của thần để lãnh đạo mọi hoạt động của ngũ tạng lục phủ, là chủ tể của hoạt động sinh mệnh, cho nên người xưa đặc biệt nhấn mạnh ý nghĩa trọng yếu về công năng của tâm. Trong thực tiễn lâm sàng đã chứng tỏ một khi tâm tạng có bệnh, thường thường sẽ thấy xuất hiện các chứng trạng như: tim đập mạnh, kinh hãi, mất ngủ hoặc phiền loạn, nói sảng, thậm chí hôn mê, hoặc hay buồn, hay cười luôn. Nguyên nhân gây ra các chứng trạng ấy, có hai phương diện nội thương và ngoại cảm: nội thương như bản thân của tâm tạng không được kiện toàn, hoặc vì sự vui mừng, lo sầu, sợ hãi, nghĩ ngợi quá độ mà gây ra bệnh, ngoại cảm như các chứng bệnh tà của lục dâm xâm lấn vào, nhiệt tà truyền ngược lên tâm bào, nhưng nguyên nhân chủ yếu vẫn là do công năng của tâm mất tác dụng chủ tể mà gây nên.

 

Chính vì tâm là chủ của ngũ tạng lục phủ có đủ khả năng thống nhất và lãnh đạo các tạng phủ để tiến hành phân công hợp tác và điều hòa lẫn nhau cho nên mới có cơ năng hoạt động của toàn bộ. Do đó, các tạng phủ mới làm tròn trách nhiệm của nó mà giữ gìn sức khỏe cho thân thể. Trái lại, nếu tâm tạng có bệnh thì sự hoạt động của các tạng phủ khác cũng sinh rối loạn có thể ảnh hưởng ngay đến sức khỏe của thân thể, bất cứ lúc nào cũng có thể sinh ra bệnh (nếu bệnh vì nguyên nhân khác hoặc tạng phủ khác sinh ra thì không kể). Cho nên thiên Linh lan bí điển luận sách Tố vấn nói: “Chủ sáng suốt thì kẻ dưới yên lành, chủ không sáng suốt thì 12 khí quan(1) suy khốn”.

 

b) Tâm chủ về huyết mạch, vinh nhuận ra ở mặt

 

“Mạch” là một trong ngũ thể, tác dụng của mạch là bao bọc huyết dịch mà làm cho chu lưu toàn thân, tuần hoàn không ngừng. Vì tâm là khí quan chủ yếu giữ việc tuần hoàn của huyết dịch, cho nên những hiện tượng mà huyết dịch phản ảnh ra, phần nhiều có quan hệ với tâm tạng. Như thiên Lục tiết tạng tượng luận trong sách Tố vấn nói: “Tâm là gốc của sinh mạng... vinh nhuận ra ở mặt, làm đầy đủ ở huyết mạch” tức là nêu ra quan hệ giữa tâm với huyết mạch và hiện tượng bình thường của tâm phản ảnh ra ngoài.

 

Trái lại, nếu tâm với huyết mạch đều suy yếu, thì phản ảnh ra sắc mặt xanh nhợt mà không có vẻ sáng sủa, nếu tâm khí suy kiệt thì sự vận hành của huyết mạch cũng không thể thông suốt được, sắc mặt sẽ thấy mất hẳn vẻ hồng nhuận như trước, chuyển thành sắc bệnh, xám tối hoặc xanh tím. Cho nên thiên Kinh mạch sách Linh khu có nói: “Khí ở kinh thủ thiếu âm tuyệt (chỉ vào tâm) thì mạch không thông, mạch không thông thì huyết động lại, huyết động lại thì tóc không tươi nhuận, cho nên mặt đen như màu sơn, khô như củi (củi sơn, tức là sắc đen mà không có mầu sáng nhuận) là huyết đã chết”. Đó là dựa vào những trạng thái để phán đoán về quan hệ giữa tâm với huyết mạch.

 

c) Quan hệ giữa tâm và lưỡi

 

Hoạt động sinh lý và biến hóa bệnh lý của tâm không những biểu hiện ở huyết mạch, sắc mặt và những phương diện chứng trạng khác có liên quan mà còn có thể phản ảnh ra trên chất lưỡi, sự phản ánh này giúp ích rất nhiều cho việc chẩn đoán khi lâm sàng. Ví dụ khi thấy chất lưỡi đỏ thắm đều là tượng trưng của tâm nhiệt, hỏa khí hữu dư. Chất lưỡi đỏ nhợt đều là tượng trưng của huyết hư, tâm khí bất túc. Nếu một khi tâm thần bị bệnh, thường thấy hiện tượng thụt lưỡi, không thể nói năng được. Trong thiên Âm dương ứng tượng đại luận sách Tố vấn có chép: "Khiếu của tâm là ở lưỡi" thiên Mạch độ trong sách Linh khu cũng có nói: “Khí của tâm thông ra lưỡi, tâm hòa thì lưỡi mới phân biệt được ngũ vị”, những lời trên đây đều nói rõ được sự quan hệ của tâm và lưỡi.

 

Tâm bào lạc là ngoại vệ của tâm, có công năng bảo vệ tâm, đồng thời lại có tác dụng chấp hành mệnh lệnh của tâm, vì thế thiên Linh lan bí điển luận sách Tố vấn có nói: “Chiên trung(1) (chỉ vào tâm bào lạc) giữ chức vụ thần sứ, sự mừng vui do đó mà ra” và thiên Trướng luận sách Linh khu có nói: “Chiên trung là cung thành của tâm chủ”. Thiên Tà khách sách Linh khu lại nói: “Tâm là vị đại chủ của ngũ tạng lục phủ...

 

Ngoại tà không thể lọt vào được, nếu tà lọt vào thì tâm bị thương, tâm bị thương thì thần đi mất, thần đi mất thì người chết, cho nên mọi thứ tà khí mà vào tâm thì đều ở tâm bào lạc”. Đó là nói rõ tâm bào lạc có tác dụng bảo vệ tâm tạng. Cho nên các y gia đời sau nhận rằng tâm bào lạc có thể chịu đựng bệnh tà thay cho tâm, như khi lâm sàng thấy bệnh ôn nhiệt xuất hiện những chứng trạng hôn mê, cấm khẩu, nói sảng, thì gọi là “tà vào tâm bào”, về cách chữa thì dùng phương pháp thanh tâm tiết nhiệt hoặc thanh tâm an thần chẳng hạn.

 

2. Can

 

a) Can tàng huyết

 

Thiên Bản thần sách Linh khu nói: “Can tàng huyết”. Thiên Ngũ tạng sinh thành luận sách Tố vấn lại nói: “Khi người ta ngủ thì huyết chạy về can”. Vương Bằng chú thích: “Người ta khi động thì huyết vận đi các kinh, khi tĩnh thì huyết chảy về can tạng”. Đó là nói can tạng có đủ công năng tàng huyết và điều tiết huyết lượng, cho nên khi lâm sàng thấy có một số bệnh thổ huyết do sự bỗng nhiên giận dữ mà gây nên, thì cách chữa thường trách cứ ở can, trên lý luận là căn cứ ở câu “giận thì hại can” và câu “can tàng huyết”, bởi vì trong khi giận dữ thái quá thì tâm thần bị kích thích kịch liệt, tất nhiên ảnh hưởng đến công năng bình thường của can, khiến cho can khí nghịch lên mà không giữ gìn được tác dụng tàng huyết, huyết dịch liền theo khí đi ngược lên mà tràn ra ngoài gây thành bệnh thổ huyết, cho nên khi gặp bệnh này thì trong phương thuốc chỉ huyết cần phải gia các vị bình can vào mới có thể thu được hiệu quả tốt.

 

b) Can là chức vụ tướng quân, chủ việc mưu lự.

 

Can có công năng phòng ngự ngoại xâm, nghĩ cách đối phó, chống đỡ với bệnh tà. Vì thế, thiên Linh lan bí điển luận sách Tố vấn nói: “Can là chức tướng quân, mưu lự do đó mà ra”. Thiên Sư truyền sách Linh khu nói: “Can làm tướng để chống đỡ ở ngoài”. Mưu lự cũng là thể hiện một sự hoạt động của tư duy (suy nghĩ).

 

c) Quan hệ giữa can với gân và móng tay móng chân

 

Gân thuộc can. Thiên Âm dương ứng tượng đại luận sách Tố vấn nói: “Can sinh gân”. Thiên Ngũ tạng sinh thành sách Tố Vấn nói: "Can hợp với gân". Thiên Lục tiết tạng tượng luận sách Tố vấn nói: “Can là gốc của sự mỏi mệt... đầy đủ ra ở gân”. Thiên Thượng cổ thiên chân luận sách Tố vấn nói: “Đàn ông đến 56 tuổi thì can khí suy, gân không cử động mạnh được”, đó đều là nói rõ can với gân và sự vận động của gân có sẵn một mối quan hệ với nhau. Vì thế, khi lâm sàng thấy những chứng trạng gân xương đau mỏi, gân co giật, uốn ván, lưỡi rụt, thụt dái đều cho là bệnh của can và gân. Lại như thiên Kinh mạch sách Linh khu nói: “Gân tụ ở âm khí mà mạch liên lạc với cuống lưỡi”.

 

Cho nên mạch không vinh nhuận thì gân căng ra, gân căng ra thì kéo chằng đến lưỡi và hòn dái. Vì vậy khi xuất hiện các chứng trạng nói trên, thì cách chữa thường thường là chữa ở can. Xem sự cứng mềm dày mỏng và sắc tươi nhuận khô héo của móng tay, móng chân, thì có thể biết được can tạng có kiện toàn hay không. Ví như trong lâm sàng thấy người bệnh can huyết bất túc, thường phần nhiều thấy móng tay, móng chân biến ra mềm mỏng và sắc ở phía trong trắng nhợt.

 

Có khi còn thấy hiện tượng ở giữa móng tay móng chân lõm xuống. Lại như người già thân thể đã suy yếu, đến lúc can huyết không vinh nhuận cũng sẽ thấy hiện tượng móng tay, móng chân khô mềm. Vì thế thiên Lục tiết tạng tượng luận sách Tố vấn nói: “Can... vinh nhuận ở móng tay móng chân”. Sách Chư bệnh nguyên hầu luận nói: “Móng tay móng chân là phần thừa của gân”.

 

d) Quan hệ giữa can và mắt

 

Nói chung, những bệnh đau mắt cấp tính, đỏ sưng đau nhức, là thuộc về một loại bệnh “can hỏa bốc lên”. Những bệnh mắt hoa, mắt mờ mãn tính hoặc hai mắt khô ráo hoặc quáng gà, nói chung là thuộc về một loại bệnh “huyết không dưỡng can”. Sở dĩ cho những bệnh đau mắt như thế có quan hệ với can tạng là căn cứ ở lý luận trong thiên Mạch độ, sách Linh khu: “Can khí thông với mắt”, thiên Kim quỹ chân ngôn luận sách Tố vấn: “Can khai khiếu ở mắt” và thiên Ngũ tạng sinh thành luận sách Tố Vấn: "Can có huyết thì mắt trông mới rõ được" Cho nên trong khi chữa bệnh thấy những chứng trạng như thế thì phần nhiều cha ở can là chủ yếu.

 

 

3. Tỳ

 

a) Tỳ chủ việc vận hóa

 

Công năng chủ yếu của tỳ là vận hóa tinh khí của đồ ăn uống, đem tinh khí của đồ ăn chuyển khắp mọi nơi trong toàn thân. Ví như: thiên Kinh mạch biện luận sách Tố vấn nói: “Đồ ăn uống vào vị, tinh khí đầy tràn, đưa len tỳ, tỳ khí phân bố tinh dịch, đưa lên phế”, thiên Quyết luận sách Tố vấn lại nói: “Tỳ giúp đỡ vị để vận hành tân dịch”. Đó đều là nói rõ tỳ có công năng vận hóa tinh khí của đồ ăn uống và phân bổ tân dịch. Tinh khí với tân dịch đều là chất cần thiết để nuôi dưỡng các bộ phận trong thân thể mà tỳ tạng là bộ phận chính để cung ứng những chất ấy, cho nên thiên Ngọc cơ chân tàng luận sách Tố vấn lại nói: “Tỳ mạch thuộc thổ, là tạng để tưới ra khắp chung quanh”. Đó lại là lấy hiện tượng Thổ sinh vạn vật” để ví dụ về công năng vận hóa của tỳ.

 

Nếu công năng vận hóa của tỳ kém thì không thể đem chất tinh vi của đồ ăn uống vận chuyển tốt đến khắp toàn thân thể được, sẽ có những chứng trạng bụng đầy,bụng sôi, ỉa sống phân, ăn không tiêu, thậm chí không muốn ăn uống, do đó mà làm cho thịt gầy đi, tinh thần mỏi mệt. Tỳ không những có thể vận hóa chất tinh vi của đồ ăn uống mà còn có thể vận hóa thủy thấp nữa. Nếu tỳ khí suy yếu, mất năng lực vận hóa thủy thấp cũng sẽ gây ra bệnh. Ví như thủy thấp ở trong trường vị không được thu hút đi thì đại tiện nhão và sột sệt, tiểu tiện không lợi, thủy thấp ở cơ phu không bài tiết ra ngoài được thì mình nặng nề, da sưng.

 

Đó tức là lý luận trong thiên Tuyên minh ngũ khí luận sách Tố vấn nói: “Tỳ không ưa thấp” và thiên Chí chân yếu đại luận sách Tố vấn nói: “Các chứng thấp thũng đầy đều thuộc về tỳ”. Những bệnh đó đều quy về bệnh của tỳ. Phép tắc cơ bản của cách chữa là kiện tỳ làm chủ yếu và thêm vào lý khí hoặc lợi thấp làm cho công năng vận hóa của tỳ được khôi phục, do đó những chứng trạng trên có thể dần tiêu hết. Nhưng cũng có trường hợp vì mệnh môn tướng hỏa suy kém, hỏa không sinh được thổ làm cho tỳ dương suy yếu, không làm được công việc vận hóa mà sinh ra ăn ít, ỉa chảy. Khi lâm sàng nên dùng phương pháp bổ hỏa sinh thổ thì tỳ khí mới có thể kiện toàn được công năng vận hóa của nó. Nếu đơn thuần chữa tỳ thì ít có hiệu quả.

 

b) Tỳ thống huyết

 

Về phương diện sinh lý, tỳ có công năng thống nhiếp huyết dịch, nếu công năng của tỳ mất bình thường thì sẽ mất tác dụng thống nhiếp huyết dịch, mà gây thành các bệnh ra huyết khác nhau, như chứng tiện huyết lâu ngày không khỏi và chứng đàn bà kinh nguyệt quá nhiều hoặc băng huyết, rong huyết. Về những bệnh ra huyết do bệnh ở tỳ mà gây ra như thế, cách chữa cần phải dùng phương pháp “dẫn huyết quy tỳ” và “bổ tỳ nhiếp huyết” mới có thể thu được hiệu quả tốt.

 

c) Quan hệ giữa tỳ với tay chân, bắp thịt với môi

 

Bắp thịt sinh ra chủ yếu là nhờ vào sự cung cấp của tinh khí đồ ăn mà tỳ tạng là chủ về việc chuyển vận chất tinh khí đó, vì thế thiên Âm dương ứng tượng đại luận sách Tố vấn có chép: "Tỳ sinh ra thịt" và thiên Ngược luận sách Tố Vấn có chép: “Tỳ chủvề bắp thịt của thân thể”. Những chứng trạng bắp thịt gầy yếu hoặc tay chân không có sức đều thuộc phạm vi của bệnh tỳ. Ví dụ: thiên Thái âm dương minh luận sách Tố vấn nói: “Tỳ bị bệnh không thể giúp viị vận hành tân dịch, tay chân sẽ không nhận được tinh khí của đồ ăn, khí lực ngày một suy kém, đường mạch không thể thông lợi được, gân, xương, bắp thịt đều không có sự dinh dưỡng của tinh khí, cho nên tay chân không vận động như thường được”, tức là nói rõ trong tình trạng tỳ không thể giúp vị vận hành tân dịch được thì tay chân, bắp thịt sẽ thiếu sự dinh dưỡng do đó mà phát sinh chứng trạng tay chân không vận động được như thường.

 

Ngoài ra dựa vào hiện tượng bình thường và tình hình bệnh biến của thân thể, người ta cũng có thể biết được tỳ tạng với bắp thịt và môi đều có quan hệ với nhau. Ví như người mà có tỳ vị vận hóa bình thường thì bắp thịt đầy đặn, môi hồng nhuận và bóng nhoáng (người môi đỏ tươi vì bệnh âm hư hỏa vượng thì không nói ở đây). Trái lại, người mà tỳ vị vận hóa bất thường, sức tiêu hóa kém thì thường thấy bắp thịt gầy đi, môi xanh nhợt không tươi nhuận, cho nên những biểu hiện ở ngoài của bắp thịt và môi, có thể tương ứng với những biến hóa của tỳ. Theo đó có thể hiểu được ý nghĩa của “tỳ hợp với bắp thịt, vinh nhuận ra ở môi” nói trong Ngũ tạng sinh thành luận sách Tố vấn.

 

4. Phế

 

a) Phế chủ khí

 

“Phế chủ khí” có hai ý nghĩa: một là phế có cơ năng hô hấp, hai là phế chủ về “chân khí” của người ta. Trung tàng kinh nói: “Phế là gốc của sinh khí”. Sách Y tôn tất độc nói: “Lá phổi trắng bóng là cái lọng để che cho các tạng, rỗng như tổ ong, dưới không có lỗ hổng, hít vào thì phồng lên, thở ra thì xẹp xuống, thở ra thở vào một cách tự nhiên, chủ việc vận hóa chất thanh trọc, là chỗ đóng mở của toàn thân”. Câu này nói rất cụ thể là phế có cơ năng hô hấp. Chứng minh khi lâm sàng nếu phổi có bệnh thì thường thấy những chứng trạng ho đờm, khí suyễn, hô hấp không lợi, cho nên nói phế chủ về hô hấp là rất rõ ràng.

 

Còn như “chân khí” tức là khí cơ bản của người ta có khi gọi là nguyên khí, nếu đối với tà khí mà nói thì lại có thể gọi là chính khí. Chân khí của người ta là một thứ vật chất rất trọng yếu, bởi vì sự duy trì sinh mệnh tuy là dựa vào sự cấp dưỡng của tinh khí đồ ăn uống, nhưng nếu không có phế hút không khí vào thì không thể làm cho tinh khí phát huy tác dụng duy trì sự sống được.

 

Cho nên thiên Thích tiết chân tà luận sách Linh khu nói: “Chân khí là bẩm thụ ở khí trời kết hợp với cốc khí mà nuôi dưỡng thân thể”. Thiên Ngũ vị sách Linh khu lại nói: “Đại khí chứa lại ở lồng ngực gọi là khí hải, khí ở phế đi ra theo đường họng, cho nên thở thì ra, hít thì vào”. Sách Trương thị loại kinh giải thích về hai tiết văn này nói: “Sự hô hấp của người ta thông với tinh khí của trời đất, để làm ra chân khí của con người. Cho nên chân khí là bẩm thụ ở khí trời kết hợp với cốc khí mà nuôi dưỡng thân thể.

 

Vì thế, sự sinh thành và phân bổ của chân khí gắn liền với công năng của phế. Khi lâm sàng thấy những chứng trạng khí hư như thân thể nhọc mệt, kém sức, ngắn hơi, tự ra mồ hôi thì nhận là có quan hệ với phế hư (đương nhiên tỳ vị hư yếu, thổ không sinh kim mà làm cho phế hư cũng là một nguyên nhân). Đó tức là lẽ nói ở trong thiên Tạng khí pháp thời luận: “Phế hư thì thở ngắn hơi, hô hấp không liên tục được”. Mà chữ khí hư ở đây tức là nói về “chân khí hư” (tham khảo ở đoạn dinh vệ, khí, huyết trong chương này).

 

b) Phế giữ chức tướng phó, chủ việc điều tiết

 

Thiên Linh lan bí điển luận sách Tố vấn nói: “Phế giữ chức tướng phó, việc quản trị điều tiết do đó mà ra”. Thiên Kinh mạch biệt luận sách Tố vấn lại nói: “Các mạch đều triều về phế”. Nói là chức tướng phó và các mạch triều về phế, tức là nói phế có thể giúp đỡ tâm tạng, điều tiết sự tuần hoàn, tâm chủ huyết, phế chủ khí, và những câu “Khí là thống soái của huyết, khí hành thì huyết hành”, "huyết là mẹ của khí, huyết đến thì khí đến” của đời sau đều đã chỉ rõ rằng, giữa hai tạng phế và tâm có quan hệ mật thiết với nhau. Do đó mà khi chữa các bệnh về huyết chứng thường thường không phải chỉ đơn thuần chữa ở tâm, ở huyết mà đồng thời còn kiêm một số vị thuốc hành khí, bổ khí nữa. Ví như thất huyết quá không dùng thuốc chỉ huyết mà dùng Nhân sâm để bổ khí nhiếp huyết, tức là căn cứ vào lý luận ở trên.

 

c) Phế hợp với bì mao

 

“Bì mao” chủ yếu là chỉ về tầng da ở ngoài thân thể mà nói. Thiên Kinh mạch sách Linh khu nói: “Thái âm (phế) vận hành khí mà làm ấm lông da. Vì tầng da ở ngoài thân thể là chỗ dương khí phân bổ ra để bảo vệ ở ngoài thân thể, nó có thể theo vào sự biến hóa của khí hậu ngoại giới và ôn khí của thân thể mà làm thành tác dụng điều tiết. Ví như gặp lạnh thì nó co kín lại, gặp nóng thì giãn hở ra; co kín thì không có mồ hôi giãn hở thì mồ hôi ra, cơ năng thích ứng của bì phu có quan hệ với phế tạng, thường thường có thể theo trên bệnh lý mà xét nghiệm được, như phế tạng hư thì dương khí cũng hư, cơ năng thích ứng của bì phu sẽ giảm sút mà dễ bị cảm mạo, thậm chí hiện ra hiện tượng tự đổ mồ hôi, đổ mồ hôi trộm. Cách chữa thì cần bổ phế ích khí, mới có thể đạt được mục đích làm kín đáo ở phần biểu. Mặt khác biểu thực thì phế khí không thông như lúc bị ngoại cảm phong hàn, phát nóng không ra mồ hôi, phần nhiều hiện ra những chứng trạng ho đờm, khí suyễn, khi chữa cần giải biểu phát ẫan, làm cho tà khí từ bì mao mà ra ngoài, sau khi mồ hôi ra, biểu tà giải rồi thì suyễn khỏi, nóng hết. Thiên Khái luận sách Tố vấn nói: "Bì mao hợp với phế" và Thiên Nuy luận sách Tố Vấn nói: “Phế chủ bì mao của toàn thân” là ý nghĩa như thế.

 

d) Phế khai khiếu ở mũi

 

Phế giữ việc hô hấp, mũi là cửa ngõ của khí hô hấp, phế có bệnh thường thường ảnh hưởng đến mũi. Thiên mạch độ sách Linh khu nói: “Phế khí thông ra mũi, phế bình thường thì mũi có thể biết mùi thơm hay thối. Vì thế khi phế khí bị phong hàn xâm phạm thì sẽ hiện ra những chứng mũi ngạt, chảy nước mũi, không ngửi thấy mùi gì cả”. Nếu phế nhiệt quá, khí không tiết ra được mà gây thành những chứng trạng ho suyễn thở gấp, đồng thời thường thấy hai cách mũi phập phồng.

 

đ) Quan hệ giữa phế với họng thở và tiếng nói

 

Họng thở ở miệng trên của phế quản là đường ra vào của phế khí, phế lại là tạng phát ra thanh âm, họng thở là cửa ngõ của thanh âm. Cho nên phế có bệnh thường thường gây ra bệnh ở họng thở hoặc ảnh hưởng đến sự thay đổi tiếng nói, thậm chí nói không ra tiếng. Ví như người bệnh phong tà uất ở phế sinh ra ho đờm, đờm thực khí bế thường thường có kiêm cả chứng đau cổ họng hoặc nói khàn khàn. Vì phế ở ngũ hành là thuộc kim, thường nói là “Chuông đặc không kêu”. Lại như thời kỳ cuối của bệnh phế lao, vì âm hư hỏa thịnh,phần nhiều có hiện tượng họng đau, tiếng nói khàn khàn, đó thường nói là “Chuông bể không kêu”.

 

5. Thận

 

a) Thận tàng tinh

 

Thận tàng tinh bao gồm hai phương diện, một là tàng chứa tinh của ngũ tạng lục phủ, hai là tàng chứa tinh của bộ phận sinh dục.

 

Tinh của ngũ tạng lục phủ nguồn gốc ở thủy cốc mà ra, là chất dinh dưỡng cơ bản để duy trì hoạt động sự sống của thân thể; tinh đó chứa ở thận và có thể tùy lúc cần thiết mà cung ứng cho ngũ tạng lục phủ. Thiên Thượng cổ thiên chân luận sách Tố vấn nói: “Thận chủ thủy, nhận tinh của ngũ tạng lục phủ mà tàng chứa lại”.

 

Tinh của bộ phận sinh dục tức là tinh của nam nữ giao hợp; là chất cơ bản nhất để làm cho sự sinh dục của loài người được phồn thịnh. Khi người ta phát triển đến giai đoạn dậy thì, thì tinh khí tự nhiên đầy đủ mà có thể có tác dụng sinh đẻ. Thứ tinh này là do tinh khí tiên thiên kết hợp với tinh khí ngũ tạng của hậu thiên chuyển hóa mà thành ra rồi chứa ở thận, thận chủ việc sinh tinh, chứa đựng và bài tiết ra cho nên trong lúc lâm sàng thấy những bệnh di tinh, hoặc tinh ít không sinh đẻ được, đều trách ở thận, về cách chữa thì chữa ở thận.

 

b) Quan hệ giữa thận khí với sự sinh trưởng phát dục

 

Thận khí là bẩm thụ ở tinh khí tiên thiên của cha mẹ. Trong khi còn thai nghén thì nó là cơ sở để xúc tiến sự phát dục trưởng thành của thai nhi. Sau khi sinh ra, thận khí được sự cấp dưỡng tinh khí đồ ăn uống của hậu thiên mà dần dần đầy đủ, nó còn có thể xúc tiến sự sinh trưởng phát dục của thân thể. Như thiên Thượng cổ thiên chân luận sách Tố vấn nói: “Con gái bảy tuổi, thận khí thịnh, răng thay, tóc mọc dài, 14 tuổi thiên quý(1) đến, mạch Nhâm thông, mạch Thái xung thịnh, lúc đó thấy kinh nguyệt cho nên có con, 21 tuổi thận khí đầy đủ cho nên răng hàm mọc lên mà thân thể lớn mạnh hết mức, 49 tuổi mạch nhân kém, mạch thái xung yếu, thiên quý cạn hết, kinh nguyệt không còn, cho nên thân thể yếu đuối mà không có con nữa.

 

Con trai tám tuổi, thận khí thực, tóc tốt răng thay, 16 tuổi thận khí thịnh, thiên quý đến, tinh khí đầy mà có thể tiết ra, âm dương hòa, cho nên có thể có con. 24 tuổi thận khí điều hòa, gân cốt cứng mạnh, răng hàm mọc ra mà thân thể lớn mạnh hết mức... 40 tuổi, thận khí suy kém, tóc rụng, răng khô... 56 tuổi can khí suy yếu, gân mạch kém hoạt động, thiên quý khô cạn, tinh khí cũng ít, thận tạng suy yếu, thân thể hao mònm 64 tuổi thì răng tóc rụng, bấy giờ ngũ tạng đã suy yếu gân xương rũ rời, thiên quý cạn hết, cho nên râu tóc bạc, người nặng nề, đi đứng không vững mà không có con nữa”. Lại nói: “Cũng có người tuổi già mà vẫn có con, đó là người bẩm thụ tinh lực khác thường, khí huyết tinh mạch lưu thông mà thận khí hữu dư”. Theo đoạn kinh văn trên là có thể biết được sự sinh ra tinh khí, thiên quý và toàn bộ quá trình sinh trưởng phát dục của người ta là có liên quan mật thiết với thận khí. Căn cứ vào đó ta càng hiểu rõ thêm ý nghĩa câu “Thận là nguồn gốc của tiên thiên”.

 

c) Thận chủ về hỏa ở mệnh môn

 

“Hỏa ở mệnh môn” cũng gọi là “tướng hỏa”. Mệnh môn có nghĩa là “căn bản của sinh mệnh”. Nói “tướng hỏa” là để so sánh với quân hỏa và còn có ý nghĩa giúp đỡ và bổ ích cho quân hỏa. Bởi vì thận là tạng chủ về thủy dịch và chứa tinh, lại chủ về hỏa ở mệnh môn, là chỗ ở của khí “nguyên âm”, “nguyên dương” của người ta (cũng gọi là chân âm chân dương, thận âm thận dương).

 

Tất cả công năng của nội tạng và sự sinh trưởng phát dục của người ta cùng với việc sinh dục nảy nở, đều là nhờ ở sự giúp đỡ lẫn nhau của thận thủy và mệnh hỏa. Cho nên sách Cảnh nhạc toàn thư nói: “Mệnh môn là cái bể của tinh huyết, tỳ vị là cái bể của đồ ăn uống, đều là gốc của ngũ tạng lục phủ, nhưng mệnh môn là gốc của nguyên khí, là chỗ ở của thủy hỏa, âm khí của ngũ tạng, không có nó thì không thể tu dưỡng, dưỡng khí của ngũ tạng không có nó thì không thể phát sinh, mà tỳ vị là chỗ ở trung châu, không có hỏa thì không thể sinh được..., tỳ vị là nguồn tưới nhuần, bẩm thụ khí của hậu thiên, mệnh môn là nguồn gốc hóa sinh, bẩm thụ khí của tiên thiên”. Lại nói: “Hỏa ở mệnh môn, tức là nguyên dương, cũng tức là hỏa để sinh vật”...

 

Những lời trên, có thể theo ở sự phản ánh của bệnh lý mà nghiệm ra, như người bệnh thận âm không đủ, thường thường có thể làm cho can âm suy kém mà gây ra những chứng trạng hư dương lấn lên như đầu choáng mắt hoa, hoặc làm cho tâm âm suy kém mà gây ra những chứng trạng tâm hỏa lấn lên như tâm phiền, mất ngủ thậm chí có thể làm cho phế âm kém mà hiện ra những chứng trạng ho khan, ho ra huyết, đổ mồ hôi trộm như người bệnh thận dương không đủ, cũng thường xuyên có thể làm cho tỳ dương suy kém mà hiện ra những chứng ỉa lỏng sống phẩn, tiết tả lúc mờ sáng hoặc làm cho tâm khí hư nhược mà sinh ra những chứng trạng tâm hồi hộp, thậm chí làm cho phế khí hư yếu mà một khi cử động thì suyễn thở, và dương hư tự đổ mồ hôi.

 

Những chứng hậu như thế trong khi chữa cũng cần phải tư thận dưỡng âm hoặc bổ thận tráng hỏa để theo vào chỗ căn bản, do đó lại càng có thể hiểu rõ ý nghĩa những câu “Mệnh môn là gốc của ngũ tạng lục phủ”, “Mệnh môn là nguồn hóa sinh” và “Hỏa để sinh vật”. Mặt khác như hỏa của mệnh môn không đủ có thể gây ra những chứng tình dục giảm sút hoặc liệt dương; trái lại tướng hỏa vọng động có thể gây ra hiện tượng tình dục xúc động luôn. Cách chữa thì đối với chứng nói trên nên ôn bổ thận dương, chứng nói sau nên tráng thủy chế hỏa, đó lại nói rõ hỏa của thận tạng mệnh môn là có quan hệ trực tiếp đến cơ năng của bộ phận sinh dục.

 

d) Thận chủ xương, tủy, thông với não

 

Sự sinh trưởng phát dục của xương và tủy đều có quan hệ nhất định với thận tạng như bệnh “cốt nuy” trong thiên Nuy luận sách Tố vấn cho là do “thận khí nhiệt”, bởi vì thận tạng bị nhiệt mà làm cho hao tổn thận âm, làm cho xương khô tủy kém, thì sẽ hiện ra những chứng lưng và xương sống không cử động quay trở được và hai chân rũ liệt không đứng lên được. Lại như những câu “Thận sinh cốt tủy” nói trong thiên Âm dương ứng tượng đại luận sách Tố vấn và câu “Thận không sinh thì tủy không thể đầy” nói trong thiên Nghịch điều luận sách Tố vấn đều là nêu rõ quan hệ giữa thận với xương tủy.

 

Tủy hội ở não vì thế thiên Hải luận sách Linh khu nói: “Não là cái bể của tủy”. Thiên Ngũ tạng sinh thành luận sách Tố vấn nói: “Tất cả tủy đều thuộc về não”. Não đã là chỗ hội của tủy, mà tủy lại từ ở sự biến hóa của thận tinh mà thành, cho nên thận tạng không những là căn bản của ngũ tạng lục phủ mà lại còn quan hệ đến công năng của xương tủy và não nữa. Thiên Linh lan bí điển luận sách Tố vấn nói: “Thận là bộ phận làm cho thân thể cường tráng, sự khôn khéo do đó mà ra”. Tức là nói rõ thận khí cường thịnh thì tinh lực của người ta đầy đủ, lao động nhanh nhẹn mạnh mẽ, đồng thời trí óc cũng tinh xảo, linh lợi, trái lại, nếu thận khí không đủ thì chẳng những cơ thể sinh ra những chứng lưng mỏi xương đau, thân thể không có sức mà thường gây ra những bệnh hay quên, mất ngủ, đầu choáng, tai ù. Chữa những bệnh như thế cần bổ thận ích tinh, làm cho thận khí khôi phục thì mọi chứng tự nhiên khỏi hết.

 

đ) Thận khai khiếu ra tai và tiền âm hậu âm

 

Ở bộ phận trên thì thận khai khiếu ra tai, ở bộ phận dưới thì khai khiếu ra tiền âm, hậu âm. Căn cứ lý luận về thận khai khiếu ra tai thì ở trong thiên Mạch độ sách Linh khu chép: “Thận khí thông ra tai, thận bình thường thì có thể nghe được”, trên lâm sàng như người bệnh thận hư thường thường có cả hiện tượng tai ù, thậm chí có thể điếc. Nếu chữa bằng thuốc bổ thận thì sẽ khỏi dần, đó là nói rõ quan hệ giữa thận và tai.

 

Còn như thận khai khiếu ra tiền âm hậu âm, chủ yếu là chỉ về quan hệ giữa thận với đại tiểu tiện, vì thận là thủy tạng, nó có công năng quản lý thủy dịch của toàn thân. Sản ra công năng này có quan hệ với tác dụng khí hóa của mệnh môn hỏa, vì chỉ có thận thủy thận hỏa giao tế với nhau mới có thể làm cho thủy dịch phân bổ và bài tiết đúng đường lối của nó.Cho nên đại tiểu tiện lợi hay không lợi, tuy là có quan hệ với cơ năng của tỳ vị, đại tiểu trường, bàng quang, nhưng đối với hỏa của mệnh môn cũng có quan hệ mật thiết. Thận thủy không đủ có khi làm cho đại tiện khô ráo bí kết, hoặc tiểu tiện ít, hỏa của mệnh môn không đủ lại có thể gây ra những bệnh đại tiện lỏng, sống phẩn, tiểu tiện không cầm lại được.

 

Mặt khác như công năng của thận tạng mất bình thường, khí không hóa được có thể làm cho thủy dịch đình lại ở trong, tiểu tiện không lợi mà tràn ra ngoài thành chứng phù thũng. Cho nên, thiên Thủy nhiệt huyệt luận sách Tố vấn nói: “Thận là của ngõ của vị, cửa ngõ không thông cho nên nước tụ lại mà sinh bệnh, tràn khắp bì phu, làm thành chứng phù thũng. Bệnh phù thũng do nước tụ lại mà sinh ra”. Bệnh phù thũng này là vì công năng của thận không được bình thường mà gây ra thường có thể dùng phương pháp bổ ích thận âm, thận dương mà chữa khỏi được.

 

II. Lục phủ

 

1. Đởm

 

a) Đởm giữ chức trung chính, chủ việc quyết đoán

 

Thiên Linh lan bí điển luận sách Tố vấn nói: “Đởm giữ chức trung chính, sự quyết đoán do đó mà ra”. Thiên Lục tiết tạng tượng luận sách Tố vấn nói: “Tất cả 11 tạng đều theo sự quyết đoán của đởm”. Trung chính tức là không thiên lệch, có ý nghĩa chuẩn xác, quyết đoán là có ý nghĩa tối hậu quyết định. Chúng ta theo hai câu kinh văn này mà xét, đặc biệt là ở câu: “Tất cả 11 tạng đều theo sự quyết đoán của đởm”, thì thấy rõ ở trong phạm vi hoạt động, suy nghĩ của thân thể, đởm chiếm một địa vị tương đối trọng yếu.

 

Sách Y thuật dẫn lời sách Y tham nói rằng: “Người mạnh dạn thì khí lưu thông mà không hề gì, người nhút nhát thì khí ngừng kết lại mà thành bệnh”. Lời kinh văn này cần nên hiểu rõ. Phàm người nào không sợ đều là thế cả. Gặp gió lớn không sợ thì không bị thương phong, gặp rét quá, nóng quá không sợ thì không bị trúng hàn trúng nhiệt, ăn no mà không phải cố gắng thì không lo tích trệ, khí dựa vào đởm, đởm mà mạnh thì tà không thể phạm được, cho nên nói: “11 tạng đều theo sự quyết đoán của đởm”. Vì thế, chữ “quyết đoán” và “theo sự quyết đoán của đởm” đều là nói về “đởm lượng” của con người.

 

b) Đởm là phủ trung tinh

 

Sách Loại kinh nói: “Đởm giữ chức trung chính chứa chất dịch trong sạch, cho nên gọi là phủ trung tinh, vì các phủ khác đều chứa chất đục, mà chỉ đởm là chứa chất trong. Bởi vì đởm là một trong sáu phủ mà khác với năm phủ kia”.

 

Trong sáu phủ thì ngoài đởm ra đều là chứa đựng hoặc chuyển vận một số chất đục như thủy cốc và đại tiểu tiện, chỉ có chất dịch của đởm không đục, cho nên gọi là phủ “trung tinh”.

 

c) Quan hệ lẫn nhau giữa can và đởm

 

Sự mưu lự và năng lực phán đoán của con người chẳng những là quyết định ở sự mạnh hay yếu của đởm khí mà là có quan hệ nhất định với can tạng nữa. Bởi vì can và đởm là biểu lý với nhau.

 

Sách Loại kinh nói: “Đởm dựa vào can là biểu lý với nhau”. Can khí tuy mạnh nếu không có đởm thì cũng không quyết đoán được. Can đởm giúp đỡ lẫn nhau thì mới có sự dũng cảm”. Cho nên can chủ về mưu lự và đởm chủ về quyết đoán là có sự quan hệ lẫn nhau.

 

Khi lâm sàng cũng có thể thấy đởm hỏa vượng thịnh thì phần nhiều là có hiện tượng can dương căng quá, người đó thường hay nóng nảy, giận dữ. Đởm khí bất túc thì phần nhiều có hiện tượng can khí thiên suy, người đó thường hay sợ khiếp, ngại nói. Trong việc dùng thuốc chữa bệnh thì thuốc bình can rất nhiều vì có thể tả được đởm hỏa, những thuốc tả đởm hỏa cũng có rất nhiều vị có thể bình can.

 

2. Vị

 

a) Vị là cái bể chứa đồ ăn, chủ việc làm chín nhừ thức ăn

 

Người ta bẩm thụ thận khí tiên thiên mà có thể sinh trưởng phát dục, nhưng cũng cần vào sự cấp dưỡng không ngừng của khí thủy cốc hậu thiên. Khí thủy cốc hình thành đầu tiên phải trải qua giai đoạn chín nhừ, mà thủy cốc chín nhừ được chính là công năng của vị. Như thiên Ngọc cơ sách Linh khu nói: “Vị là bể chứa của ngũ tạng lục phủ, đồ ăn đều vào vị, ngũ tạng lục phủ đều bẩm khí ở vị”. Nói rõ vị là chỗ chứa đựng thủy cốc mà thủy cốc cần phải qua tác dụng của vị thì ngũ tạng lục phủ mới được tinh khí của thủy cốc để duy trì sự hoạt động không ngừng.

 

Cho nên vị là nguồn cung cấp dinh dưỡng cho ngũ tạng lục phủ, là một tạng khí rất trọng yếu. Vì thế, những học giả đời sau mới đem công năng của vị và thận cùng đề ra mà bàn chung, nên có lý luận thận là căn bản của tiên thiên, tỳ vị là căn bản của hậu thiên. Nếu công năng của vị bị bệnh, vị khí kém thì có thể làm cho tác dụng của tạng phủ khác bị ảnh hưởng hoặc gây ra bệnh tật, nếu vị khí càng suy kiệt thì mạch tượng sẽ không có hiện tượng nhu hòa, mạch tượng như thế trong sách Nội kinh gọi là “mạch không có vị khí” hoặc “mạch chân tạng” và cho là nếu thấy mạch tượng như thế, tất nhiên là triệu chứng chết. Do đó, có thể chứng minh vị khí thịnh hay suy là quan hệ rất lớn đến sức khỏe của thân thể.

 

b) Quan hệ giữa vị và tỳ

 

Về đường tuần hành của kinh mạch thì kinh mạch túc Thái âm thuộc tỳ liên lạc với vị, kinh mạch túc Dương minh thuộc Vị liên lạc nới tỳ. Hai tạng phủ ấy có quan hệ biểu lý lẫn nhau. Về công năng thì vị chủ việc làm chín nhừ thủy cốc, tỳ chủ việc vận hóa thủy cốc, chuyển vận tinh khí và tân dịch đến khắp mọi nơi, sự hợp tác phân công giữa hai tạng phủ ấy, trong quá trình cùng nhau hoàn thành nhiệm vụ cấp dưỡng là có sẵn quan hệ nương tựa lẫn nhau, về tính năng thì tỳ là âm tạng, vị là dương phủ, tỳ là thấp thổ không ưa thấp mà ưa táo, vị là táo thổ không ưa táo mà ưa nhuận, tỳ khí đưa lên là thuận, vị khí đưa xuống là thuận, trong trạng thái bình thường giữa hai tạng đó là phải giúp đỡ lẫn nhau để giữ gìn sự điều hòa và thăng bằng giữa hai tạng phủ ấy.

 

Chính vì tỳ và vị về sinh lý có quan hệ mật thiết với nhau, cho nên bệnh vị có thể ảnh hưởng đến tỳ, bệnh tỳ cũng có thể ảnh hưởng đến vị. Nếu tỳ không vận hóa thì vị không thể thu nạp được, vị không làm chín nhừ được thức ăn thì tỳ cũng không thể vận hành được. Tỳ hư thấp tụ lại làm cản trở vị dương, sẽ sinh ra những chứng: bụng đầy trướng không muốn ăn, vị thực táo nhiệt thì tiêu hao tân dịch của tỳ, sẽ làm cho tân dịch không lên được, mà sinh ra tình trạng miệng khô môi ráo. Về bệnh lý thì hai phủ tạng ấy có quan hệ mật thiết, nhưng về một số chứng bệnh cũng cần phải phân biệt thêm, như chứng nôn mửa nói chung là do vị khí không đưa xuống được, nghịch lên mà gây ra; chứng tiết tả là do tỳ mất sự vận chuyển bị hãm ở dưới mà gây nên. Bởi vì chỗ bị bệnh khác nhau nên trọng điểm luận trị cũng khác nhau.

 

3. Đại tiểu tràng

 

a) Tiểu trường chủ việc phân hóa vật chất mà phân biệt thanh trọc

 

Thiên linh lan bí điển luận sách Tố vấn nói: “Tiểu trường giữ chức vụ chứa đựng, vật đã được phân hóa do đó mà ra”. Đó là nói rõ công năng của tiểu trường là tiếp thu đồ ăn uống đã ngấu nhừ ở vị đưa xuống để làm công việc gạn lọc thanh trọc, làm cho thanh khí đi về tỳ mà chuyển vận đến tàng trữ ở ngũ tạng, lại làm cho chất thủy dịch của cặn bã đi về bàng quang, chất cặn bã đi về đại trường và bài tiết ra ngoài để hoàn thành công việc “hóa vật”.

 

Sách Y học nhập môn nói: “Những đồ ăn đã ngấu nát ở vị... từ u môn (miệng dưới của vị) truyền xuống tiểu trường... gạn lọc ra thanh trọc, thủy dịch vào miệng trên của bàng quang, cặn bã vào miệng trên của đại trường”. Nói rõ tiểu trường có cơ năng gạn lọc thanh trọc, làm cho thủy dịch và cặn bã được chia ra rành rọt. Vì thế nếu cơ năng của tiểu trường không được kiện toàn thì sẽ ảnh hưởng đến đại tiểu tiện.

 

Phàm chứng đi lỏng mà thủy cốc không gạn lọc được và tiểu tiện đi ra nhiều hay ít, sắc đậm hay nhợt đều có quan hệ với tiểu trường. Ví như trong tạng phủ tiêu bản dụng dược thức nói: “Bệnh của tiểu trường (chỉ về bệnh phủ của tiểu trường) thì đại tiện đi sống phẩn, tiểu tiện ngắn, tiểu tiện bế, tiểu tiện ra huyết...” Điều đó đã nêu rõ bệnh của tiểu trường chủ yếu là biểu hiện ở phương diện tiểu tiện, đồng thời cũng có quan hệ đến phương diện đại tiện nữa.

 

b) Đại trường chủ việc bài tiết chất cặn bã

 

Thiên Linh lan bí điển luận sách Tố vấn nói: “Đại trường giữ chức vụ truyền đạo, sự biến hóa do đó mà ra”. Truyền đạo tức là có ý nghĩa bài tiết. Biến hóa là chỉ về bài tiết ra phẩn là cặn bã của đồ ăn uống sau khi đã biến hóa, cho nên nói “biến hóa do đó mà ra”. Về quá trình tiêu hóa, thu hút, bài tiết đồ ăn uống, người xưa cho rằng: “Vị giữ trách nhiệm thu nạp, làm ngấu nhừ thức ăn, tỳ giữ trách nhiệm vận hóa, đem chất tinh hoa của đồ ăn uống đã ngấu nhừ đi khắp toàn thân để nuôi dưỡng thân thể, tiểu trường đưa phần nước thải xuống bàng quang rồi bài tiết ra tiền âm, phần cặn bã xuống đại trường rồi bài tiết ra hậu môn, đại trường phụ trách việc truyền tống, đem chất cặn bã truyền tống ra ngoài, cũng là giai đoạn cuối cùng của toàn bộ quá trình biến hóa. Bởi vì công dụng của đại trường là truyền tống cặn bã, giữ việc đại tiện cho nên trên lâm sàng phàm những chứng đại tiện bế kết hoặc bệnh lỵ vội, đi mót rặn v.v... khi chữa đầu tiên chủ yếu là phải nhuận trường.

 

c) Quan hệ giữa tiểu trường và đại trường

 

Ở trên đã nói, tiểu trường có công năng hóa vật mà phân biệt thanh trọc, đại trường có tác dụng biến hóa và truyền tống cặn bã vì thế ở đây nói về quan hệ giữa đại trường với tiểu trường trên thực tế cũng là quan hệ giữa tiểu tiện với đại tiện, nói chung, như người bệnh đi tiểu nhiều thì đại tiện thường thường khô táo, ngược lại người bệnh đại tiện đi loãng lỏng thì tiểu tiện sẽ đi ra ít.

 

Căn cứ tình hình trên, đối với việc chữa một số bệnh đau bụng đi tả, thì không nhất định đơn thuần sử dụng cách cố sáp chỉ tả, mà có khi còn dùng đến thuốc lợi tiểu tiện, làm cho tiểu tiện đi được nhiều. Như thế thì đại tiện tự nhiên từ lỏng trở nên rắn, loãng trở nên đặc. Sách Thương hàn luận nói: “Chứng đi ỉa lỏng thuộc về hạ tiêu thì dùng thang Xích thạch chi vũ dư lương làm chủ yếu, nếu cứ ỉa chảy không chỉ thì nên lợi tiểu tiện”, đó tức là nguyên lý “Lợi tiểu tiện để làm chắc đại tiện”, theo những phương diện này mà xét thì lại có thể thấy rõ hơn về quan hệ giữa tiểu trường với đại trường.

 

d) Quan hệ giữa tâm với tiểu trường

 

Quan hệ giữa tâm với tiểu trường về phương diện kinh mạch thì kinh thủ Thiếu âm thuộc tâm liên lạc với tiểu trường, kinh thủ Thái dương của tiểu trường liên lạc với tâm. Hai tạng phủ đó quan hệ biểu lý với nhau. Thiên Bản thần sách Linh khu nói: “Tâm hợp với tiểu trường”. Hợp tức là ý nghĩa quan hệ lẫn nhau, ảnh hưởng lẫn nhau giữa hai tạng phủ đó, ví như nguyên nhân của chứng lưỡi đỏ mà nứt đều là do tâm hỏa vượng thịnh (tâm khai khiếu ở lưỡi), nhưng thường thường lại có cả những chứng tiểu tiện đỏ và ít, thậm chí tiểu tiện ra huyết, đó chính là phù hợp với câu trong sách Sào thị bệnh nguyên nói: “Tâm chủ huyết hợp với tiểu trường, nếu tâm nhiệt kết lại ở tiểu trường, thì tiểu tiện ra huyết”. Trong tình trạng như thế, nên việc chữa bệnh áp dụng thanh tâm lợi tiểu tiện thì có thể làm cho nhiệt tà ở tâm và tiểu trường theo tiểu tiện ra mà đạt được mục đích chữa khỏi bệnh.

 

đ) Quan hệ giữa phế với đại trường

 

Về phương diện kinh mạch thì kinh thủ Thái âm thuộc phế, liên lạc với đại trường, kinh thủ Dương minh đại trường liên lạc với phế, giữa hai tạng phủ đó có quan hệ biểu lý lẫn nhau. Cho nên, thiên Bản thần sách Linh khu nói: “Phế hợp với đại trường”. Quan hệ giữa phế với đại trường lại có thể theo trên bệnh lý mà xét nghiệm, ví như trên lâm sàng thấy chứng suyễn đầy thuộc đờm trọc bế tắc, phế khí không thông lợi thì thường gây ra chứng đại tiện bí hoặc chứng kiết lỵ, khi chữa dùng thuốc thông phế khí thì đại tiện tự nhiên điều hòa, trái lại đại tiện bí kết cũng có thể gây ra chứng phế khí suyễn đầy, khi chữa làm cho đại tiện thông lợi thì suyễn đầy cũng có thể tiêu hết.

 

4. Bàng quang

 

a) Bàng quang chủ việc chứa tân dịch

 

Thiên Linh lan bí điển luận sách Tố vấn nói: “Bàng quang là chức vụ châu đô, tân dịch chứa ở đó”. “Tân dịch” ở đây nói về tiểu tiện của người ta, bởi vì sau khi tiếp thu đồ ăn do tỳ vị làm nhừ biến thành tân dịch,vận chuyển để dinh dưỡng cho toàn thân, những chất dịch cần thiết cho người ta thường có mức độ nhất định còn phần thừa thải thì trừ một phần có thể bài tiết ra ngoài (tức là mồ hôi), còn phần lớn là qua đường thủy đạo của tam tiêu mà chuyển xuống bàng quang thành tiểu tiện.

 

Sách Sào thị bệnh nguyên nói: “Tiểu tiện là chất thừa thải của thủy dịch”. Cho nên, tân dịch, tiểu tiện và mồ hôi có quan hệ mật thiết với nhau. Nếu tiểu tiện nhiều quá thì tân dịch trong thân thể tất nhiên sẽ giảm sút, trái lại mồ hôi ra nhiều quá hoặc khi thổ tả kịch liệt mà làm tân dịch bị giảm sút nhiều quá thì số lượng tiểu tiện cũng sẽ giảm sút, thậm chí không đi tiểu tiện, như khi trời nóng thì mồ hôi ra nhiwuf mà tiểu tiện trên ít, khi trời rét thì mồ hôi ra ít mà tiểu tiện nhiều. Những hiện tượng như thế, tức là nguyên do của câu “Tân dịch chứa ở bàng quang”.

 

b) Quan hệ giữa bàng quang với thận

 

Kinh mạch túc Thái dương bàng quang với kinh mạch túc Thiếu âm thận là biểu lý với nhau. Kinh mạch túc Thiếu âm thuộc thận liên lạc với bàng quang, kinh mạch túc Thái dương của bàng quang liên lạc với thận. Cho nên trong thiên Bản thần sách Linh khu nói: “Thận hợp với bàng quang, bàng quang là phủ của tân dịch”. Về sinh lý thì tân dịch sở dĩ có thể biến thành tiểu tiện là có quan hệ mật thiết với tác dụng khí hóa của thận, cho nên thiên Linh lan bí điển luận sách Tố vấn nói: “Bàng quang là chức vụ châu đô, tân dịch chứa ở đó nhờ khí hóa mà bài tiết ra ngoài được”. Cho nên chứng tiểu tiện không cầm được hoặc tiểu tiện không thông, tuy chủ yếu là thuộc về công năng của bàng quang mất bình thường, nhưng có khi vì thận khí hư yếu hoặc mệnh môn hỏa kém đều có thể hiện ra những chứng đó. Về tình trạng như thế, lúc chữa nên bổ ích thận khí hoặc bổ mệnh môn hỏa, mới có thể thu được hiệu quả tốt.

 

5. Tam tiêu

 

a) Phân biệt bộ vị của tam tiêu

 

Tam tiêu là một phủ trong lục phủ, nhưng có chỗ khác với năm phủ kia. Căn cứ sự ghi chép trong thiên Dinh vệ sinh hội sách Linh khu và sách Y học chính truyền thì thân thể người ta có chia ra thượng tiêu, trung tiêu và hạ tiêu. Từ miệng trên của vị (bí môn) lên đến dưới lưỡi bao gồm cả bộ phận lồng ngực và hai tạng tâm, phế, đều thuộc phạm vi của thượng tiêu, từ miệng trên của vị xuống đến miệng dưới của vị (u môn) bao gồm cả bộ phận bụng trên và tỳ vị đều thuộc phạm vi của trung tiêu, từ miệng dưới của vị xuống đến tiền âm, hậu âm bao gồm cả bộ phận bụng dưới và can, thận, đại tiểu trường, bàng quang đều thuộc về phạm vi của hạ tiêu. Điều thứ 31 của sách Nạn kinh nói: “Thượng tiêu là từ dưới tâm xuống đến cách mô, ngang chỗ miệng trên của vị, chủ nạp mà không chủ xuất... Trung tiêu là ở ngang giữa trung quản của vị, không cao không thấp, chủ việc làm ngấu nhừ thức ăn... Hạ tiêu ngang với miệng trên của bàng quang, chủ việc phân biệt thanh trọc, chủ xuất mà không chủ nạp để truyền tống cặn bã”.

 

b)Phân biệt công năng của tam tiêu

 

Công năng của tam tiêu, nói tóm lại thì có ba phương diện: lưu thông khí huyết tân dịch, làm ngấu nhừ đồ ăn, và thông lợi đường nước. Thiên Ngũ lung tân dịch biệt luận sách Linh khu nói: “Đồ ăn vào miệng có năm vị đều dồn về bể chứa của nó, tân dịch đều đi theo đường lối riêng của tân dịch, cho nên tam tiêu đưa khí ra để làm ấm bắp thịt, nuôi dưỡng bì phu là tân, chất lưu lại không đi là dịch...” Điều thứ 31 sách Nạn kinh lại nói: “Tam tiêu là đường lối của thức ăn, là chỗ khí luân chuyển đi về, đều đó nói rõ công năng của tam tiêu có thể đưa khí huyết tân dịch của thức ăn đi chu lưu khắp da dẻ và tạng phủ; đồng thời tỳ vị ở vào trung tiêu, cho nên việc làm ngấu nhừ đồ ăn lại là có quan hệ với tác dụng của tam tiêu”. Thiên Bản thần sách Linh khu nói: “Tam tiêu là phủ trung độc_ đường nước do đó mà ra, thuộc với bàng quang”. Đó là nói rõ tam tiêu có đủ tác dụng khơi thông đường nước, nhưng những công năng đó nếu đem ba bộ phận thượng, trung, hạ tiêu mà phân biệt ra, thì lại là có sở chủ riêng của từng bộ phận và có quan hệ mật thiết với những nội tạng như sau:

 

* Thượng tiêu

 

Thiên Dinh vệ sinh hội sách Linh khu nói: “Thượng tiêu như sương mù, nói sương mù là hình dung ở thượng tiêu nhiều khí (phế chủ khí trong lồng ngực là khí hãi)”. Công năng của nó như sương mù tưới nhuần khắp chốn. Mà khí của thượng tiêu lại là nguồn gốc ở trung tiêu, cho nên thiên Quyết khí sách Linh khu nói: “Thượng tiêu phân bổ khí ngũ cốc đi khắp nơi làm ấm da dẻ, nuôi thân thể, mượt lông tóc như sương mù rơi xuống gọi là khí”. Sách Trương thị loại kinh cũng có giải thích: “Tỳ tán tinh khí ra, khí ấy như sương mù và quy về phế, nên nói thượng tiêu như sương mù”. Chính vì thượng tiêu có thể đưa khí đi khắp toàn thân mà có tác dụng làm ấm ngoài da, mướt lông tóc, vì thế mà phần cơ biểu của người ta được sự dinh dưỡng và do đó mà phát sinh được công năng bảo vệ ở ngoài (công năng này gọi là vệ khí). Nếu cơ năng của thượng tiêu mất bình thường, sự phân bố bị trở ngại, thì da dẻ không được sự ôn nhuận của vệ khí, lỗ chân lông mở đóng không thuận lợi, sẽ sinh ra hiện tượng rét run, phát nóng. Ngoài ra, thượng tiêu còn có công năng chủ việc thu nạp. “Nạp” tức là nói bao gồm cả hô hấp và ăn uống. Bởi vì phế chủ việc hô hấp, vị chủ việc tiếp nạp đồ ăn, hai tạng phủ ấy đều khai khiếu ở thượng tiêu cho nên nói thượng tiêu có công dụng chủ việc thu nạp.

 

* Trung tiêu

 

Thiên Dinh vệ sinh hội sách Linh khu nói: “Trung tiêu như bọt nước sủi lên”. “Bọt nước sủi lên” là chỉ vào trạng thái sinh hóa của tỳ vị. Bởi vì nhìn vào phạm vi của trung tiêu và công năng của tạng phủ ở trong đó, thì chủ yếu là vận hoá thủy cốc và chưng bốc khí huyết tân dịch để nuôi dưỡng khắp toàn thân. Trong quá trình ấy, động lực của một loại hoạt động hóa sinh, trừ công năng của tỳ vị ở trung tiêu ra, thì hạ tiêu cũng góp một phần tác dụng nhất định trong đó. Lại nói: “Trung tiêu cũng bao gồm ở trong, nó thu nạp cốc khí, lọc cặn bã, chưng tân dịch, làm thành tinh hoa đưa lên phế mạch để hóa thành huyết”. Trong thiên Quyết khí sách Linh khu cũng nói: “Trung tiêu nhận lấy cốc khí, đem chất dịch biến hóa ra sắt để gọi là huyết”. Những câu ấy đã nói rõ tác dụng của trung tiêu chủ yếu là hóa thủy cốc thành ra khí huyết tân dịch, là chất có đủ tác dụng dinh dưỡng. Trung tiêu sở dĩ như “bọt nước sủi lên” cũng chính là kết quả của những hoạt động sinh lý như biến hóa, chưng, bốc. Nếu công năng của trung tiêu bị trở ngại sẽ làm cho việc tiêu hóa không được tốt, ảnh hưởng đến sự sinh hóa của khí huyết.

 

* Hạ tiêu

 

Thiên Dinh vệ sinh hội sách Linh khu nói: “Hạ tiêu như ngòi rãnh”, sách Trương thị loại kinh nói: “Ngòi rãnh là chỗ nước chảy ra”, ý nói hạ tiêu chủ xuất chứ không chủ nạp, trôi đi chứ không trở lại. Cho nên công năng chủ yếu của hạ tiêu là thấm chất thủy dịch xuống gạn lọc ra thanh trọc và bài tiết đại tiểu tiện.

 

Như thế có nghĩa là hạ tiêu chủ xuất chứ không chủ nạp. Về phương diện này có rất nhiều sách chép, ví dụ: thiên Dinh vệ sinh hội sách Linh khu nói: “Hạ tiêu phân biệt từ ở hồi trường(1)..., thành cặn bã mà xuống cả ở đại trường, mà thành ra công dụng của hạ tiêu”. Sách Thiên kim phương nói: “Tân dịch thấm vào bàng quang, chủ xuất mà không chủ nạp, phân biệt ra chất thanh trọc”. Cho nên, nói chứng tiết tả không phân biệt thanh trọc và những chứng bí đái, són đái, vì bàng quang khí hóa bất thường đều quy về bệnh tật ở hạ tiêu.

 

c) Quan hệ giữa tam tiêu và tâm bào lạc

 

Về phương diện kinh lạc thì kinh thử Quyết âm liên lạc với tam tiêu thuộc tâm bảo, kinh thủ Thiếu dương liên lạc với tâm bào thuộc tam tiêu. Sách Trương thị loại kinh đồ dực

Nói: “Tam tiêu là bộ phận bảo vệ ở ngoài tạng phủ, tâm bào lạc là bảo vệ ở ngoài cho tâm, cũng như hai lần thành của cửa khuyết nhà vua, cho nên đều thuộc dương và đều gọi là tướng hỏa. Vả lại, mạch lạc cũng thông với nhau và làm biểu lý lẫn nhau”. Vì thế nên tâm bào và tam tiêu về công dụng là biểu lý thông với nhau, phối hợp chặt chẽ với nhau.

 

III. Phủ kỳ hằng

 

Phủ kỳ hằng là do tác dụng của những phủ ấy khác với những tạng phủ khác trong thân thể người ta. “Kỳ hằng” có nghĩa là khác thường. Thiên Ngũ tạng biệt luận sách Tố vấn nói: “Sáu thứ: não, tủy, xương, mạch, đởm, tử cung, là do địa khí gây ra. Đều tàng ở phần âm mà giống như đất, cho nên tàng lại mà không tả ra, gọi là phủ kỳ hằng”. Nói rõ sáu thứ ấy về hình thể thì giống như phủ, mà tác dụng thì giống như tạng, không phải tạng, không phải phủ, mà cũng là tạng là phủ, cho nên gọi là “phủ kỳ hằng”. Sáu bộ phận ấy tuy đã phân biệt ra khác với ngũ tạng lục phủ, nhưng những bộ phận ấy đều có liên hệ với ngũ tạng lục phủ. Trong đó, xương, mạch, đởm đã phân biệt và giới thiệu qua ở phần thận, tâm, đởm nói trên cho nên ở đây không nói lại nữa. Dưới đây chỉ chú trọng thảo luận về não, tủy và nữ tử bào (tử cung).

 

1.Não tủy

 

a) Nguồn gốc và sự quan hệ giữa não và tủy

 

Trong Tiết thận tạng ở trên đã nói đến: “Thận sinh ra xương tủy”, “Não là chỗ hội họp của tủy”, cho nên tên gọi của não và tủy tuy khác nhau mà trên thực tế vẫn cùng một nguồn gốc. Thận sinh được cốt tủy là vì thận khí thịnh vượng, tinh dịch đầy đủ. Mà nguồn gốc của tinh lại nhờ thủy cốc của hậu thiên hóa ra. Chính như thiên Ngũ lung tân dịch biệt luận sách Linh khu nói: “Tinh dịch của ngũ cốc hòa hợp thành chất nhờn thấm vào trong ống xương để bồi bổ cho não tủy”. Vì thế, nguồn gốc sinh hóa của não và tủy chính là có quan hệ với tinh khí thận tạng của tiên thiên, lại có quan hệ với tinh khí, thủy cốc của hậu thiên.

 

b) Quan hệ và tác dụng giữa não và tủy bình thường và lúc có bệnh

 

Tác dụng giữa não và tủy trong thân thể người ta có thể chia làm hai phương diện như sau:

 

+ Não có tác dụng giữ gìn cho tay chân mình mẩy hành động nhanh nhẹn, tai mắt sáng tỏ. Cho nên thiên Giải tinh vi luận sách Tố vấn nói: “Não là cái bể của tủy... Bể tủy có dồi dào thì nhanh nhẹn, mạnh mẽ và nhiều sức, quá mức với độ bình thường, bể tủy không đủ thì choáng óc, ù tai, ống chân nhức, choáng váng, mắt mờ, lười nhác, thích nằm”. Nói “nhanh nhẹn, mạnh mẽ, nhiều sức vượt mức bình thường”, tức là nói trong quá trình lao động chân tay chẳng những biểu hiện ra sự làm dẻo dai, mà còn vượt mức bình thường, đó là hiện tượng não tủy sung túc, còn như nói: “Choáng óc, ù tai, choáng váng, mắt mờ”, tức là nói tai mắt không sáng tỏ, sức trông, sức nghe thất thường, "ống chân nhức, lười nhác hay nằm" là ý nói chân tay mình mẩy rũ rời khó mà chống đỡ. Những chứng ấy đều là hiện tượng suy kém.

 

+ Tủy có tác dụng nuôi dưỡng xương, tức như trong thiên Hải luận sách Linh khu nói: “Tủy làm đầy đủ cho xương”. Nếu tủy đầy đủ thì có thể làm cho xương mạnh mẽ, trái lại nếu tủy không đủ thì không lợi cho sự sinh trưởng của xương. Lại như thiên Nuy luận sách Linh khu nói: “Xương khô mà tủy kém thì sinh ra chứng cốt nuy(1)”. Nói rõ sự phát sinh ra chứng cốt nguy cũng là do tủy kém.

 

Quan hệ giữa não tủy với thận, đoạn trên đã nói qua, não tủy là do thận tinh sinh ra. Vì thế não tủy được bình thường hoặc bị bệnh là phải theo vào sự hư hay thực của tinh khí ở thận tạng mà chuyển biến. Dựa vào quan hệ “thận sinh cốt tủy”, nếu trong khi lâm sàng thấy một số chứng trạng vì não và tủy không đủ mà sinh ra, thì lúc chữa là cần phải bổ thận, tức là “thận đầy đủ thì tủy đầy đủ”. Bổ thận là đã bao hàm có bổ não và bổ tủy trong đó.

 

2. Dạ con

 

Dạ con có tên là bào cung (tức là tử cung) có hai công năng, một là chủ về kinh nguyệt, hai là chủ về bào thai.

 

a) Chủ về kinh nguyệt

 

Con gái đến tuổi dậy thì, khí huyết ở mạch Xung, mạch Nhâm đã vượng thịnh, cho nên bắt đầu có kinh nguyệt. Đến khoảng 49 tuổi vì thận khí đã giảm sút, khí huyết ở mạch Xung, mạch Nhâm đã suy kém, cho nên kinh nguyệt không ra nữa. Nói chung người con gái đến tuổi dậy thì bắt đầu hành kinh và có thể thụ thaiđến lúc già, nguyệt kinh chấm dứt rồi, thì không sinh đẻ nữa. Trong lâm sàng, như kinh nguyệt không đều, cũng thường ảnh hưởng đến việc thụ thai, cho nên kinh nguyệt có quan hệ mật thiết với việc sinh dục, và kinh nguyệt bình thường hay không là có quan hệ rất mật thiết với hai mạch Xung Nhâm. Bởi vì hai mạch Xung, đều phát nguyên ở bào cung, xung nhân không điều hòa hoặc không giữ gìn được khí huyết thì có thể sinh ra những chứng kinh nguyệt không đều hòa hoặc băng lậu hoặc kinh bế. Một phương diện khác, quan hệ giữa bào cung với nội tạng là mật thiết, nhất là thận và can, cho nên bệnh ở can và thận đều có thể gây nên chứng kinh nguyệt bất đều.

 

b) Chủ về bào thai

 

Khi chưa có thai thì nữ tử bào chủ việc hành kinh, khi có thai lại là một bộ phận chủ yếu để bảo vệ và nuôi dưỡng thai nhi. Sự nuôi dưỡng cung cấp cho thai nhi ở trong bào cung chủ yếu là dựa vào hai mạch Xung, Nhâm của người mẹ. Bởi vì, mạch Xung là bể của 12 kinh mạch, mạch nhâm là bể của các âm mạch, khí huyết ở hai mạch ấy rất là đầy đủ. Cho nên khi người đàn bà có thai, kinh nguyệt đã ngưng rồi, thì hai mạch Xung, Nhâm liền chuyển nhiệm vụ chủ về kinh mạch sang nhiệm vụ chủ về bào thai để cấp dưỡng cho thai nhi. Vì thế trong quá trình có thai, nếu thấy có những chứng thai động ra máu, hoặc trở dạ đau bụng, thường thường là do ở hai kinh mạch Xung, Nhâm trống rỗng, không thể giằng giữ được thai nhi. Về cách chữa thì phần nhiều dùng thuốc bổ ích Xung, Nhâm làm cho khí huyết ở Xung, Nhâm đầy đủ vượng thịnh lên để nuôi dưỡng thai nhi, như thế thì đạt được mục đích an thai.

 

IV. Dinh, vệ, khí, huyết, tinh, thần, tân dịch

 

Dinh, vệ, khí, huyết là lý luận cơ bản nói lên tác dụng dinh dưỡng, cơ năng bảo vệ bên ngoài và sự tuần hoàn của khí huyết trong thân thể người ta. Nó là bộ phận sinh lý học của Đông y. Một phương diện khác, trong quá trình phát triển của tật bệnh, tất nhiên cũng làm cho dinh, vệ, khí, huyết thay đổi, căn cứ vào chứng trạng do sự thay đổi ấy gây ra mà phân tích, phán đoán, thì có thể nhằm đúng bệnh biến khác nhau để phân loại và đặt phép chữa, đó là thuyết Ôn bệnh. Đời sau vận dụng vệ, khí, dinh, huyết để làm phương pháp quy loại các chứng hậu, đồng thời còn lấy đó để phân biệt trình độ nông sâu của tật bệnh, làm căn cứ cho việc biện chứng luận trị.

 

1. Dinh, vệ, khí, huyết

 

a) Sự sinh thành và phân bố của dinh, vệ, khí, huyết

 

+ Dinh

 

Dinh có nghĩa là hậu cần và dinh dưỡng, là một chất có tác dụng dinh dưỡng của thân thể người ta. Thiên Dinh vệ sinh hội sách Linh khu nói: “Người ta thụ khí ở thủy cốc, khí ấy vào vị rồi truyền sang phế, ngũ tạng lục phủ đều tiếp thu khí ấy, thanh là dinh, trọc là vệ, dinh ở trong mạch, vệ ở ngoài mạch”. Lại nói: “Dinh là tinh khí của đồ ăn”, thiên Dinh khí sách Linh khu cũng nói: “Dinh khí là khí ở chỗ thu nạp cốc khí, cốc khí vào vị rồi truyền sang phế, tràn đầy ở trong, phân tán ra ngoài, phần tinh vi đi trong đường kinh toại(1) dinh dưỡng thân thể liên tục không ngừng”. Căn cứ những lời kinh văn trên, chủ yếu nói về nguyên do sinh thành của dinh là do đồ ăn, trải qua sự tiêu hóa của tỳ vị, rồi thu hút những phần tinh vi trong đó mà hóa sinh ra. Cho nên dinh là tinh khí ở trong đồ ăn, sự phân bố của nó là từ vị truyền sang phế, rồi từ phế đi vào trong huyết mạch mà vận hành khắp toàn thân, tuần hoàn không ngừng.

 

+ Huyết

 

Thiên Quyết khí sách Linh khu nói: “Trung tiêu nhận lấy tinh khí của đồ ăn, đem chất lỏng biến hóa thành sắc đỏ gọi là huyết”. Thiên Tà khách sách Linh khu nói: “Dinh khí lọc tân dịch, chảy về các mạch làm huyết, để dinh dưỡng ra ngoài chân tay và tưới vào trong ngũ tạng lục phủ”. Vì thế, nguồn gốc của huyết là tinh khí của đồ ăn (tân dịch). Nói cụ thể tức là dinh khí và tân dịch kết hợp với nhau thông qua tác dụng khí hóa của trung tiêu mà thành ra, mà huyết lại cùng với dinh khí tuần hành một lúc trong huyết mạch, trong thì chu lưu khắp ngũ tạng, lục phủ, ngoài thì dinh dưỡng tứ chi bách hài, dinh dưỡng toàn thân.

 

Dinh và huyết tuy đều là nguồn gốc ở tinh khí của đồ ăn và đều sinh thành ở trung tiêu, rồi cùng đi với nhau vào kinh mạch, nhưng quá trình sinh thành của dinh và huyết còn có trước và sau khác nhau, trên hình thái tính chất cũng có sự phân biệt nhất định.

 

+ Vệ

 

Vệ là bảo vệ, giữ gìn, cũng là một chất có tác dụng bảo vệ thân thể người ta. Vệ và dinh đều là do ở đồ ăn đã thông qua sự tiêu hóa, thu hút, hóa sinh của tỳ vị thành ra, nhưng chỉ khác nhau ở đường lối vận hành, dinh đi ở trong mạch, mà vệ thì ở ngoài mạch. Thiên Tý luận sách Tố vấn nói: “Vệ là khí mạnh mẽ của đồ ăn, khí ấy lanh lẹ trơn chảy, không thể đi vào trong mạch, cho nên nó đi ở khoảng trong da, thớ thịt, bốc vào các màng mỡ, tản mác ở lồng ngực và bụng”. Thiên Tà khách sách Linh khu nói: “Vệ khí là khí mạnh mẽ, nhanh nhẹn đi khắp tay chân và da thịt, liên tục không ngừng”. Căn cứ những lời kinh văn trên thì bản chất của vệ khí là phần khí mạnh mẽ, hùng hậu ở trong khí của đồ ăn, có tính lưu lợi, vận động lanh lẹ, nó phân bổ ở ngoài đường mạch, đi suốt tay chân da thịt, màng mỡ, tản mác khắp lồng ngực và bụng.

 

+ Khí

 

ý nghĩa chữ khí có phần rộng rãi, ở đây chủ yếu là thảo luận về “chân khí” của người ta.

 

Nguồn gốc của khí ngườì ta, một phần là không khí do đường hô hấp của phổi mà vào, một phần là khí của đồ ăn, do đồ ăn đã trải qua sự tiêu hóa thu hút của tỳ vị mà thành. Thiên Thích thiết chân tà sách Linh khu nói: “Chân khí là bẩm thụ ở khí trời cùng với khí của đồ ăn hợp lại, để nuôi dưỡng thân thể người ta”. Đó là nói rõ chân khí là khí của đồ ăn uống hợp lại mà thành, nó có công năng nuôi dưỡng toàn thân. Nhưng vì tình hình phân bổ và tác dụng của nó khác nhau mà có những tên gọi khác nhau. Như thiên Ngũ vị sách Linh khu nói: “Đồ ăn khi mới vào vị thì phần tinh vi trước tiên ở vị đi ra lưỡng tiêu(1) tưới nhuần năm tạng đi riêng ra hai đường dinh và vệ, còn “đại khí” ở lại không đi, chứa ở lồng ngực... vào ở phổi, đi ra yết hầu, cho nên khi thở thì ra, khi hít thì vào”.

 

Theo lời kinh văn trên có thể hiểu được chất tinh vi của đồ ăn sau khi đã hóa thành khí thì trước tiên từ vị phân bổ ra thượng tiêu và trung tiêu, chia riêng dinh khí, vệ khí ra hai đường đi tuần hành khắp thân thể, dinh dưỡng, ngũ tạng lục phủ. Còn phần khí phân bố ở trong lồng ngực gọi là “đại khí” lại gọi là long khí, theo đường họng mà thở ra và hút không khí vào, cùng kết hợp với khí đồ ăn, thì gọi là chân khí. Cho nên sách Trương thị loại kinh nói: “Chân khí tức là nguyên khí, khí trời đi theo đường mũi vào họng thở, khí của đồ ăn đi theo đường miệng vào họng nuốt, nhưng khí này khi người ta còn ở trong bụng mẹ thì gọi là khí tiên thiên, khi đã sinh ra rồi thì gọi là khí hậu thiên, khí ở phần dương tức là dương khí, khí ở phần âm tức là âm khí, khí ở phần biểu tức là vệ khí, khí ở phần lý tức là dinh khí, ở tỳ là sung khí, ở vị là vị khí, ở thượng tiêu là tông khí, ở trung tiêu là trung khí, ở hạ tiêu là khí nguyên âm và khí nguyên dương. Do đó có thể biết nguồn gốc của khí tuy cùng là một nhưng vì sự phân bổ và tác dụng của nó khác nhau, nên có những tên gọi khác nhau, mà trong đó chân khí là căn bản của các khí.

 

b)Tác dụng chủ yếu của dinh, vệ, khí, huyết

 

+ Dinh và huyết

 

Dinh và huyết tuy có chỗ khác nhau, nhưng trên công dụng thì hai thứ đó lại liên hệ mật thiết với nhau chia ra như dưới đây:

 

* Thu lưu tuần hòan dinh dưỡng toàn thân

 

Phàm lông, da, xương, thịt, tạng phủ của người ta, nếu không có sự dinh dưỡng của huyết thì không thể hoạt động được, bởi vì huyết có tác dụng dinh dưỡng, cho nên huyết thịnh thì hình thể cũng thịnh, huyết suy thì hình thể cũng suy, chỉ có huyết mạch điều hòa, tuần hoàn lưu lợi mới có thể làm cho da thịt, gân cốt, khớp xương của toàn thân có sức mạnh mẽ vận động như thường. Sở dĩ hai mắt trông được, hai chân đi được, hai tay cầm nắm được, da dẻ mịn màng được, đều là nhờ sự tưới nhuần của huyết dịch. Nhưng sự điều hòa và tuần hoàn của huyết dịch cùng với khí có sự quan hệ rất lớn. Người xưa nói: “Khí là thống soái của huyết”.

 

Lại nói “Khí vận hành thì huyết cũng vận hành”. Chỉ rõ ra huyết dịch sở dĩ có thể chu lưu không ngừng, nuôi dưỡng toàn thân được là hoàn toàn nhờ ở tác dụng thúc đẩy của khí. Thiên Tý luận sách Tố vấn nói: “Dinh là tinh khí của đồ ăn, điều hòa ngũ tạng, tưới khắp lục phủ”, vì thế nói: “Tác dụng của dinh chủ yếu cũng là dinh dưỡng thân thể người ta. Huyết và dinh trên công năng là không thể tách rời nhau được. Ví dụ: sự vận hành của dinh vệ bị bế tắc không thông, huyết mạch trống rỗng, thì kinh mạch, da dẻ, thớ thịt không được sự dinh dưỡng của dinh khí và huyết dịch sẽ sinh ra chứng trạng tê dại cấu không biết đau. Nếu tà khí xâm phạm vào huyết mạch, sự vận hành của dinh khí không thuận lợi thì sẽ thấy huyết dịch bị đình trệ ở một bộ phận nào đó thành các bệnh sưng đau.

 

+ Dinh huyết còn có quan hệ đến sự hoạt động của tinh thần

 

Thiên Bản thần sách Linh khu nói: “Huyết mạch, dinh khí, tinh thần đều chứa ở ngũ tạng”. Và nói: “Can chứa huyết, huyết là chỗ nương tựa của hồn..., tỳ chứa dinh, dinh là chỗ nương tựa của ý..., tâm chứa mạch, mạch là chỗ nương tựa của thần” v.v... Đó là nói rõ dinh và huyết là cơ sở vật chất của tinh thần hoạt động. Cho nên sự thịnh suy tiêu trưởng của dinh huyết và sự thịnh vượng của tinh thần, sự linh lợi của ý thức là có quan hệ mật thiết. Trong môn sản hậu sách Thánh tể tổng lục nói: “Đàn bà mới đẻ, tân dịch bị hao tổn mà huyết hư, chí yếu, làm cho người đó tinh thần mê mẩn, nói năng sai lầm, hoảng hốt không yên, nặng quá lại sinh ra chứng điên cuồng, cách chữa nên bổ huyết ích tâm, an thần định chí. Đó là vì huyết ra nhiều quá, mà hiện ra bệnh biến về tinh thần”. Thiên Điều kinh luận sách Tố vấn nói: “Can tàng huyết, huyết thịnh quá thì sinh ra giận, huyết kém thì sinh ra sợ”. Chứng súc huyết nêu trong sách Thương hàn luận cũng có chứng trạng tinh thần như cuồng, đó là vì huyết súc tích mà lại ảnh hưởng đến tinh thần.

 

Trái lại, tinh thần bị kích thích quá độ cũng có ảnh hưởng đến sự biến hóa của huyết dịch vận hành, ví dụ như: khi giận quá làm cho huyết khí nghịch lên, thậm chí mửa ra máu hoặc vì tâm bị khuất nhục, thần chí không khoan khoái, tâm khí không thư thái cũng có thể thành ra chứng dinh huyết hư nhược, tức như thiên sơ ngũ quá luận sách Tố vấn gọi đó là chứng “thoát dinh” và “thất tinh”. Do đó có thể hiểu được sự hoạt động thất thường của tinh thần có thể làm cho thiếu huyết, sự thiếu huyết cũng có thể sinh ra tật bệnh về tinh thần, hai cái đó là nhân quả với nhau. Cho nên thiên Bát chính thần minh luận sách Tố vấn nói: “Huyết khí là thân của người ta, phải nên cẩn thận nuôi dưỡng”, tức là lẽ đó.

 

+ Vệ và khí

 

Sự sinh trưởng, phát triển vận động, biến hóa của vạn vật trong vũ trụ đều là do tác dụng của khí. Người ta sở dĩ có sinh mệnh hoạt động, cũng là đều do ở công năng của khí. Cho nên sách Trương thị loại kinh nói: “Lẽ sinh hóa lấy khí làm gốc, trời đất vạn vật không gì là không do ở khí. Cho nên khí ở ngoài trời đất thì bao la trời đất, khí ở trong trời đất thì vận hành ở trong trời đất. Nhật nguyệt, tinh thần, nhờ đó mà sáng; sấm, gió, mây, mưa nhờ đó mà thành; bốn mùa vạn vật nhờ đó mà sinh trưởng, thu tàn, không có gì là không nhờ ở khí, người ta sống được hoàn toàn nhờ khí đó”. Cho nên khí có tác dụng duy trì hết thảy mọi hoạt động của cơ thể.

 

Người ta khi chưa sinh, mới thành hình trong bào thai của người mẹ, toàn nhờ ở hai mạch Xung, Nhâm tiếp liền ở cuống rốn, cùng thông với khí huyết người mẹ, để bẩm thụ khí tiên thiên, sau khi đẻ ra lại nhờ sự hô hấp không khí, ăn uống đồ ăn để nuôi dưỡng, hai cái đó không thể thiếu được. Khí sở dĩ duy trì được hoạt động sự sống của cơ thể là vì khí có thể sinh hóa vạn vật, bồi bổ và dinh dưỡng hết thảy tạng khí, nhờ đó mà điều hòa sự hoạt động của cơ thể. Đồng thời cũng do khí có tác dụng thúc đẩy làm cho tất cả vật chất chuyển vận khắp toàn thân. Còn như vệ khí thì chủ yếu là có tác dụng chống đỡ bệnh tà, điều tiết hoàn cảnh bên ngoài và bên trong.

 

Căn cứ những lời nói trên, tất cả sự hoạt động của người ta không gì là không nhờ vào sự thúc đẩy của khí. Ví dụ như huyết có thể chu lưu tuần hoàn không ngừng, tân dịch có thể phân bổ khắp da dẻ thớ thịt, chạy khắp các đốt xương cho đến sự thông lợi của đường nước, sự bài tiết của mồ hôi, nước tiểu, không có chỗ nào là không có tác dụng của khí! Cho nên khi lầm sàng đối với một số bệnh có quan hệ đến sự vận hóa mất bình thường của huyết dịch, tân dịch, thủy đạo đều dùng phương pháp chữa bằng điều khí, hành khí hoặc bổ khí làm chủ yếu.

 

Còn như công năng điều hòa giữa các tạng phủ và các khí quản, là nhờ tác dụng liên lạc và truyền dẫn của kinh lạc ở giữa, nhưng tác dụng của tạng phủ kinh lạc cũng nhờ sau khi có sự nuôi dưỡng đầy đủ của khí, rồi mới có thể sinh ra khí của tạng phủ, khí của kinh lạc, mà có công năng hoạt động. Cho nên trong phép chữa bằng châm cứu, khi châm kim vào thấy có sự cảm ứng thì gọi là “đắc khí”. Lại như phế khí thông lên mũi mới có thể biết mùi thơm thúi; can khí thông lên mắt mới có thể phân biệt được ngũ sắc; tâm khí thông lên lưỡi mới có thể biết được các vị của đồ ăn; tỳ khí thông lên miệng mới có thể biết được thức ăn ngon hay không. Cơ năng của thất khiếu cũng đều là tác dụng thông thông đạt của khí ngũ tạng. Do đó ta thấy sự vận động của vật chất trong thân thể, sự họat động của khí quản, tạng phủ và sự điều hòa của toàn thân, đều nhờ vào tác dụng của khí mới thực hiện được.

 

Thiên Thiên nguyên kỷ sách đại luận Tố vấn nói: “Ở trời là khí, ở đất thành hình, hình và khí cảm ứng với nhau mà hóa sinh vạn vật”. Đó là nói sau khi vật chất có tác dụng của khí rồi, vật chất nhân sự vận động đó mà sinh ra chuyển hóa, vận động và chuyển hóa không ngừng, người xưa gọi là “lẽ sinh hoá”. Có lẽ sinh hóa rồi mới có thể hóa sinh vạn vật, có vạn vật rồi thì tất nhiên có hiện tượng sinh trưởng và phát triển về sinh, trưởng, thu, tàn, thiếu, tráng, lão, tử. Lẽ hóa hóa, sinh sinh đó, quy kết lại là một sự tác dụng của khí, cho nên đời sau gọi là tác dụng “khí hóa”. Kết hợp với thân thể người ta mà nói, người ta mỗi ngày ăn uống thứ này, thứ khác là cốt để cho thức ăn uống ấy biến thành những chất tinh huyết, tân dịch trong thân thể để nuôi dưỡng toàn thân, thì tất nhiên cần phải trải qua tác dụng sinh hóa của khí. Mà những vật chất đó sở dĩ có thể làm cho tạng phủ hoặc khí quản có năng lực hoạt động, cũng cần phải thông qua tác dụng sinh hóa của khí.

 

Nhưng cần phải biết rõ tác dụng khí hóa không phải là đóng khung ở các tạng phủ hoặc khí quan nào. Sách Y kinh tinh nghĩa nói: “Kinh mạch là đường đi của khí hóa tạng phủ”, kinh mạch không chỗ nào là không đi đến. Vì thế có sự tồn tại của khí là có phát sinh ra tác dụng khí hóa, có tác dụng khí hóa mới có sự thay cũ đổi mới của cơ thể. Ví dụ như trường vị tiêu hóa thức ăn, thu hút chất tinh vi, và sự hoạt động của chân tay, mình mẩy cũng đều biểu hiện cụ thể về tác dụng của khí hóa, mà sự hoạt động của toàn thể lại là làm chủ cho sự hoạt động sinh hóa.

 

Vệ khí là một bộ phận khí của toàn thân, công năng chủ yếu của nó là làm ấm thịt, mịn da, nuôi dưỡng lỗ chân lông, giữ việc mở đóng lỗ mồ hôi. Cho nên thân thể người ta khi bình thường đều thấy da dẻ ấm áp, mềm mại dễ chịu, bắp thịt thông lợi, điều đạt, lỗ chân lông cũng được kín đáo. Bởi vì bắp thịt, da dẻ mạnh mẽ nhờ đó có thể chống đỡ được sự xâm phạm của ngoại tà, ví dụ như tà khí xâm phạm vào cơ thể người ta, vệ khí liền chống đỡ ngay, đánh nhau với tà khí, mà sinh ra hiện tượng sợ lạnh, phát nóng. Nếu như vệ khí thắng được tà khí thì mồ hôi chảy ra, sốt lui, mà tà khí giải được, vệ khí cũng trở lại bình thường. Trái lại, nếu tà khí thắng thì biểu chứng vẫn thấy còn, nếu như vệ khí hư yếu không đầy đủ được ở bì phu, thì kinh mạch trống rỗng, đường huyết bị trở ngại, da thịt mất sự dinh dưỡng thì sinh ra chứng trạng tê dại cấu không biết đau, lại có khi tà khí, phong, hàn, thấp lưu lại không tan thì làm hại đến huyết mạch, hoặc lưu trú ở các khớp xương thì thành ra chứng tê.

 

Như vậy thì công năng của vệ khí là làm ấm áp tư nhuận và dinh dưỡng da thịt, lỗ chân lông, ngăn ngừa và chống đỡ sự xâm lấn của ngoại tà và có sẵn quan hệ mật thiết với cơ năng của da thịt; đồng thời còn giữ việc mở đóng lỗ chân lông, đối với sức thích ứng hoàn cảnh của cơ thể có tác dụng rất lớn.

 

+ Quan hệ lẫn nhau của dinh, vệ, khí, huyết

 

Sự quan hệ giữa dinh vệ, và khí, huyết, nói về tác dụng thì dinh chủ việc dinh dưỡng, vệ chủ việc bảo vệ ở ngoài. Nhưng tác dụng bảo vệ ở ngoài chính là làm cho công năng dinh dưỡng của nội tạng thực hiện được, trái lại, sự dinh dưỡng của nội tạng được đầy đủ cũng làm cho công năng vệ ngoài được kín đáo thường xuyên. Đó là ý nghĩa như câu trong thiên Âm dương ứng tượng đại luận sách Tố vấn nói: “Âm ở trong để giữ gìn cho dương, dương ở ngoài để giúp đỡ cho âm”. Huyết và khí cũng như thế, huyết tuy do khí mà sinh, theo khí mà đi, nhưng khí lại cần phải dựa vào cơ sở của huyết mới có thể phát huy tác dụng vận động sinh hoá, hai thứ đó tương trợ lẫn nhau, xúc tiến lẫn nhau, cũng tức là bao hàm ý nghĩa dương sinh âm trưởng.

 

Cho nên dinh vệ bất hòa, khí huyết bất điều, âm dương mất thăng bằng thì xuất hiện rất nhiều chứng bệnh. Thiên Điều kinh luận sách Tố vấn nói: “Khí huyết lẫn lộn nhau, âm dương chênh lệch nhau, khí loạn ở vệ, huyết nghịch ở kinh, khí huyết không đúng chỗ, một bên thực, một bên hư”. Đó tức là nói: “Khí huyết bị hơn kém nhau, thì âm dương mất điều hòa, làm cho đường vận hành của khí huyết bị rối loạn, thậm chí không nương dựa được nhau mà sai chỗ, gây ra thiên lệch, bên này hư, bên kia thực, do đó mà sinh ra các bệnh tật. Cho nên nói dinh, vệ, khí, huyết là một chỉnh thể hoàn chỉnh hóa sinh lẫn nhau, điều hòa lẫn nhau, có quan hệ rất chặt chẽ với nhau.

 

2. Tinh

 

Tinh có hai ý nghĩa: như trong thiên Đại hoặc luận sách Linh khu nói: “Tinh khí của ngũ tạng lục phủ đều dồn về mắt mà thành tinh hoa”. Thiên Âm dương ứng tượng đại luận sách Tố vấn nói: “Vị thương tổn đến hình, khí thương tổn đến tinh”, đó đều là chỉ vào tinh của ngũ tạng lục phủ mà nói. Thiên Thượng cổ thiên chân luận sách Tố vấn lại nói: “Con trai 16 tuổi thận khí thịnh, thiên quý đến, tinh khí đầy tràn”. Thiên Bản thần sách Linh khu nói: “Tinh thương thì xương mỏi rũ rời, tinh có lúc tự chảy ra”.

 

Đó là chỉ về tinh của bộ phận sinh dục. Nhưng tinh sinh dục mà thận tạng làm chủ, cũng là lấy tinh của ngũ tạng, lục phủ, thông qua tác dụng của thận khí mà sinh ra. Tinh của ngũ tạng lục phủ là chất dinh dưỡng chủ yếu cảu nhân thể, nó do đồ ăn uống vào dạ dày thông qua sự tiêu hóa hấp thu của tỳ vị và tác dụng khí hóa, tổng hợp lại mà thành ra rồi chứa ở thận. Trong lúc ngũ tạng lục phủ cần được cấp dưỡng những chất tinh hoa thì thận tạng lại có thể đưa những chất tinh hoa đã chứa lại đó để cấp dưỡng, cho nên tinh sinh ra luôn luôn. Chính vì thế mà mỗi khi lục dâm hoặc thất tình làm hại đến nhân thể thì kết quả cũng hại đến tinh khí. Cho nên thiên Sơ ngũ quá luận sách Tố vấn có nói đến tên của sự “thất tinh”, thiên Kim quỹ chân ngôn luận sách Tố vấn lại có câu: “Giữ được tinh thì đến mùa xuân không bị bệnh ôn”. Đều nói rõ về sinh lý tinh của ngũ tạng lục phủ là thứ vật chất dinh dưỡng không thể thiếu được để duy trì hoạt động của sự sống.

 

Tinh về phương diện sinh dục của thận tạng là cơ sở của tiên thiên. Thiên Kinh mạch sách Linh khu nói: “Con người khi mới tạo hình, trước tiên tụ tinh, tinh thành rồi não tủy mới sinh, xương là trụ cột, mạch là dinh, gân là dây chằng, thịt là tường vách, da dẻ bền chặt, tóc lông dài tốt, thức ăn vào dạ dày, đường mạch được lưu thông, khí huyết được lưu hành”. Đó là nói rõ con người khi còn ở trong bào thai, trước tiên là bẩm thụ tinh của cha mẹ, tức là thứ tinh (khí) của tiên thiên. Trên cơ sở ấy, bào thai được sự cung cấp nuôi dưỡng của khí huyết người mẹ, sau mới dần dần sinh ra những tổ chức não, tủy, xương, gân, mạch, da, thịt, lông, tóc . Sau khi đẻ ra lại nhờ vào sự cấp dưỡng của tinh khí đồ ăn uống để tự duy trì sự sống, tinh khí của tiên thiên cũng đồng thời được sự nuôi dưỡng của tinh khí đồ ăn uống mới dần dần đầy đủ lên mà phát huy tác dụng xúc tiến sự sinh, trưởng, phát dục của cơ thể của nó.

 

Căn cứ thiên Thượng cổ thiên Chân luận sách Tố vấn ghi chép thì đàn ông con trai đến chừng tám tuổi, thận khí mới bắt đầu thịnh vượng, răng sữa thay, tóc mọc dài và xanh tốt, khoảng chừng 16 tuổi, thận khí lại thịnh vượng thêm, đến tuổi dậy thì, có thiên quý rồi tinh cũng bắt đầu sinh ra, “tinh” là vật chất cơ bản để làm sự sinh dục của loài người được phồn thịnh, khi đó nam nữ giao hợp với nhau là có thể sinh con cái, đến khoảng 64 tuổi, thiên quý đã hết, tinh cũng hết, thì không còn năng lực sinh dục nữa. Nguyên nhân của thiên quý hết và tinh kiệt là hậu quả của thận khí suy tàn.

 

3. Thần

 

a) Sự sinh thành và tác dụng của thần

 

Thần là biểu hiện bình thường của sự suy nghĩ, ý thức và hết thảy sự hoạt động của sinh mạng, là một danh từ trừu tượng, cũng như sinh mạng nó bắt nguồn từ khi tinh huyết của mẹ giao hợp, khi bào thai đã kết thành hình rồi thì thần của sinh mạng cũng đồng thời được xây dựng. Cho nên thiên Bản thần sách Linh khu nói: “Nguồn gốc của sinh mạng là tinh, hai tinh hợp lại là thần”. Sau khi đẻ ra nhờ vào sự thu nạp đồ ăn uống, thần cũng được nuôi dưỡng không ngừng, do đó mà giữ vững được trạng thái sử dụng mãi mãi. Cho nên thiên Bình nhân tuyệt cốc sách Linh khu nói: “Thần là tinh khí của đồ ăn uống”. Thiên Lục tiết tạng tượng luận sách Tố vấn lại nói: “Ngũ vị ăn vào chứa ở trường vị, ngũ vị chứa lại để nuôi ngũ khí, khí hòa hợp với ngũ vị mà sinh ra tân dịch, thần cũng nhờ đó mà sinh”. Căn cứ lời nói trên, thần sinh ra là có cơ sở vật chất nhất định, chứ không phải là không có căn cứ.

 

Thần ở trong thân thể người ta có quan hệ với ngũ tạng rất là mật thiết. Thiên Tuyên minh ngũ khí luận sách Tố vấn nói: “Tâm chưa thần, phế chứa phách, can chứa hồn, tỳ chứa ý, thận chứa khí. Thần, phách, hồn, ý, chí, tên gọi tuy có khác nhau, nhưng trên thực tế vẫn là thuộc loại của thần, đồng thời vì tâm ở trong ngũ tạng có tác dụng thống soái các tạng khác nên thần của tâm trạng cũng là đại biểu cho cả phách, hồn, ý chí của bốn tạng khác. Thiên Bản thần sách Linh khu nói: "Hai tinh giao kết với nhau gọi là thần, theo thần đi qua đi lại gọi là hồn, cùng với tinh ra vào gọi là phách, cho nên cai quản mọi vật gọi là tâm, chỗ ghi trong tâm gọi là ý, ý quyết định vững chắc gọi là chí" theo đoạn kinh văn này có thể chứng minh được quan hệ giữa thần và ngũ tạng nói ở trên.

 

Tác dụng của thần trong thân thể người ta, có thể chia ra hai phương diện mà nói: người xưa nhận rằng thần và hình thể người ta, không thể tách rời nhau một giây phút nào được, tức là nói sinh mệnh của người ta, tồn tại ngày nào thì thần còn tồn tại ngày ấy. Thiên Thiên niên sách Linh khu nói: “Người ta đến trăm tuổi thì năm tạng đều hư, thần khí đều mất, chỉ còn lại hình xác thì chết”. Thiên Di linh biến khí luận sách Tố vấn nói: “Giữ được thần thì sống, mất thần thì chết”. Do đó, có thể phản ảnh ra được “hình và thần song song với nhau” là tượng trưng chủ yếu của sinh mệnh, vì thế, chúng ta có thể nói: “Mắt sở dĩ vận động được, tai sở dĩ nghe được, miệng sở dĩ nói được, chân tay sở dĩ vận động được, tất cả hoạt động về ý thức, suy nghĩ và hình thể, không một hình thức nào mà không do tác dụng phát huy của thần mà biểu hiện ra".

 

Người khỏe mạnh thì thần khí biểu hiện ra đầy đủ hoạt bát. Lúc đau ốm, thần khí vì bị xâm mạch nên cũng biểu hiện ra hiện tượng khác thường. Ví dụ như mắt không sáng sủa, tinh thần mệt mỏi, thậm chí nói năng mất bình thường, mê man thấy ma quỷ, phiền táo, không biết gì hoặc tay lần áo sờ giường, bắt chuồn, bắt chấu, vê chỉ v.v..., bệnh tình đến như thế đã rất nguy hiểm. Cho nên trên lâm sàng xem thần khí người bệnh có thể phán đoán được bệnh nặng hay nhẹ, bệnh lành hay dữ.

 

b) Quan hệ giữa thần với tinh và khí

 

Người xưa gọi tinh, khí, thần là ba thứ quý báu. Tinh là chất tinh vi ở đồ ăn uống của hậu thiên hóa sinh ra, là cơ sở vật chất của mọi hoạt động trong nhân thể. Khí là tinh khí của đồ ăn uống và không khí hút vào, hợp lại mà thành, là chất chủ yếu của công năng sinh lý toàn thân, thần là sự khái quát của tất cả hoạt động sinh lý bình thường của thân thể. Do đó ta thấy sự quan hệ của tinh, khí, thần là rất mật thiết, khí sinh ra ở tinh, tinh hóa sinh cũng nhờ ở khí, tác dụng của tinh và khí hợp lại với nhau thì biểu hiện ra thần.

 

Vì thế, người tinh khí đầy đủ thì thần nhất định cũng thịnh vượng, trái lại, người mà thần không thịnh vượng cũng có thể giải thích là do tinh khí không đầy đủ, vì có sự liên quan lẫn nhau giữa những thứ đó cho nên tinh bị hao tổn quá sẽ giảm bớt sự sinh ra khí, khí bị hao tổn nhiều quá cũng làm kém sút sự sinh hóa ra tinh, đồng thời cũng thấy biểu hiện ra hình tượng thần không đủ. Thần tuy sinh ra do tinh và khí, nhưng nếu tinh thần hoạt động quá độ, tổn hại đến thần cũng có ảnh hưởng đến tinh và khi mà làm cho hình thể suy yếu. Cho nên thiên Bản thần sách Linh khu nói: "Trung tâm sợ hẫi, nghĩ ngợi thì hại đến thần, thần bị thương thì sợ hãi mất vía, bắp thịt tiêu thoát hết". Sách Trương thị loại kinh nói: “Tuy thần là do tinh khí sinh ra, nhưng thống soái được tinh khí và làm chủ sự vận dụng, thì lại là thần ở trong tâm của chúng ta”. Cũng là lẽ đó.

 

4. Tân dịch

 

a) Sự sinh thành và công dụng của tân dịch

 

Tân dịch là nói chung tất cả các chất nước bình thường trong cơ thể, nguồn gốc chủ yếu của nó là đồ ăn, đồ ăn trải qua các sự hợp tác của vị, đại trường, tiểu trường, bàng quang, tam tiêu mà hóa sinh ra. Căn cứ vào Nội kinh chép: “Đồ ăn vào, sau khi đã trải qua sự tiêu hóa, có đủ vật chất, có tác dụng dinh dưỡng thì gọi là tinh hoặc tinh khí, tinh khí chuyển vận đến tỳ, rồi từ tỳ chuyển đến phế”.

 

Vì phế là chủ việc khí hóa của toàn thân, cho nên chất dịch đều theo khí hóa mà vận hành toàn thân, tinh khí trải qua tác dụng khí hóa của tiểu trường và bàng quang, phân biệt ra chất trong, chất đục. Chất đục, theo đường bàng quang bài tiết ra, chất trong chảy vào kinh mạch của ngũ tạng, đưa đi khắp toàn thân, tinh ở đây trên thực tế là tinh dịch. Thân thể người ta với sự cần thiết của tân dịch, trong tình trạng bình thường là luôn luôn phải giữ gìn được mức đợ nhất định. Cho nên thức ăn vào, cùng với sự sinh thành, phân bổ, điều tiết và chuyển hóa của tân dịch, và việc bài tiết phần nước ra ngoài đều có mức độ nhất định. Mức độ ấy chủ yếu là dựa vào công năng của ngũ tạng, để duy trì sự thăng bằng của âm dương trong thân thể người ta tùy theo quy luật biến hóa của khí hậu bốn mùa.

 

Thí dụ như: khi trời nóng thì ra mồ hôi, khi trời lạnh thì đi tiểu tiện nhiều, đó là sự thực rất rõ rệt, nhưng cần nói rõ phế chủ về khí hóa, thận chủ về nước, bàng quang chứa tân dịch, tam tiêu là bộ phận chủ việc khí hóa và khơi thông đường dẫn nước, đều có công năng quản lý chất nước của toàn thân, cho nên thân thể người ta có thể duy trì được sự sinh thành, phân bố, điều tiết, chuyển hóa của chất nước, và thăng bằng chất nước là đều có quan hệ với phế, thận, bàng quang và tam tiêu. Nếu công năng của những tạng phủ đó mất bình thường hoặc đường khí không thông sẽ ảnh hưởng đến sự chuyển vận và bài tiết của tân dịch mà gây ra những bệnh thủy thũng và tiêu khát. Tân và dịch tuy là một loại vật chất giống nhau nhưng trong đó có chỗ phân biệt. Tân thuộc dương theo vệ khí mà phân bổ, dịch thuộc âm chu lưu theo kinh mạch dinh huyết. Thiên Quyết khí sách Linh khu nói: “Bài tiết ra lỗ chân lông, mồ hôi dâm dấp gọi là tân”, lại nói: “Chất mềm nhờn thấm tưới vào trong xương, xương thuộc về co duỗi, và tiết ra chất nhờn để bổ ích não tủy, làm mịn da dẻ, gọi là dịch”,

 

Cho nên phàm những chất có thể đi rải rác khắp toàn thân, làm cho nhu nhuận bắp thịt, nuôi dưỡng khắp da dẻ là tân, tân bốc ra ngoài cơ biểu tức là mồ hôi. Dịch có tính chất nhu nhuận, chảy khắp các chỗ gân, cốt, khớp xương làm cho khớp xương co duỗi được dễ dàng, thấm vào trong ống xương để bổ sung vào dinh dưỡng não tủy, chảy ra ngoài cơ thể thì làm cho da dẻ mịn màng. Đó là người xưa căn cứ vào bộ vị phân bổ khác nhau, và công năng sinh ra khác nhau của tân dịch mà phân biệt ra dương tân và âm dịch.

 

Tân dịch với dinh khí kết hợp lại, thông qua tác dụng của trung tiêu cũng có thể chuyển hóa làm huyết dịch. Đồng thời, tân dịch thông qua tác dụng của ngũ tạng lại có thể chuyển hóa làm năm chất dịch là mồ hôi, nước mũi, nước mắt, nước bọt và nước miếng. Tóm lại, trong thì ngũ tạng, ngoài thì da thịt, bảy khiếu và các khớp xương không có cái gì là không dựa vào tân dịch để duy trì trạng thái bình thường của nó.

 

b) Quan hệ của tân dịch với tân, khí, huyết

 

Tân dịch cùng với dinh, vệ, khí huyết đều là nguồn gốc ở ăn uống, cho nên sách Nội kinh nhận rằng: tinh, khí, tân, dịch, huyết, mạch, tuy có sáu tên gọi, nhưng thực tế đều là một khí. Bởi vì những thứ ấy chẳng những là cùng một nguồn gốc, mà lại có tác dụng lẫn nhau, tư sinh lẫn nhau, cho nên sau khi tân dịch bị hao tổn thì khí huyết đồng thời cũng suy kém, mà khí huyết suy kém cũng làm cho tân dịch không đủ. Thí dụ lúc ra mồ hôi nhiều, mửa nhiều, ỉa chảy nhiều, hoặc ôn bệnh làm cho hao tổn tân dịch, thì nhất định cũng thấy kèm theo đó những chứng trạng khí huyết sút kém như khí đoản, khí kém, mạch vi tế, tim hồi hộp, tay chân buốt lạnh. Sau khi bị mất huyết nhiều quá thường xuất hiện ra những hiện tượng tân dịch không đủ như miệng khô, khát nước, tiểu tiện ít, đại tiện khó đi.

 

Thiên Dinh vệ sinh hội sách Linh khu nói: “Người bị mất huyết thì không nên phát hãn, người bị ra mồ hôi nhiều thì không nên phá huyết”. Sách Thương hàn luận cũng có điều cấm: “Nguời bị mất huyết thì không nên phát hãn”. Bởi vì mồ hôi là tân dịch hóa ra, những người bị bệnh tân dịch không đủ, hoặc người bệnh lâu ngày bị tổn hại đến âm dịch nói chung đều không nên phát hãn mà lại cần phải luôn luôn chú ý đến tân dịch, cho nên khi lâm sàng thường thường đem chứng “mất huyết” và “mất tân dịch” cùng bàn chung. 

Bài viết này có 0 bình luận

Viết một bình luận :

4939